Ru-Tơ
- Thứ hai - 04/03/2013 03:58
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
-----------------------------
I/. TÊN SÁCH:
- Chữ RU-TƠ:
Đây không phải là tên Tác giả của sách, nhưng là tên Nhân vật chính trong sách.
- Bà Ru-tơ:
Sáng. 19:37-, Mô-áp là một dân tộc dòng dõi của Lót, dân tộc nầy bị Chúa phạt dù mười đời cũng không được vào hội của Chúa (Phục Truyền 23:34).
Ru-tơ là một phụ nữ góa chồng (chồng là một người Y-sơ-ra-ên di cư qua Mô-áp, người chồng nầy chết sớm).
Ru-tơ là một nàng dâu có lòng yêu thương mẹ chồng là Na-ô-mi.
Ru-tơ được tái giá với Bô-ô và trở nên tổ mẫu của vua Đa-vít và tổ mẫu của Chúa Jêsus Christ.
II/. NIÊN HIỆU SÁCH RU-TƠ:
1:1 cho biết câu chuyện trong sách Ru-tơ xảy ra trong đời Các Quan Xét, nghĩa là xảy ra trước thời Đa-vít từ 60 năm đến 100 năm (1100 TC.)
4:22 tỏ ra sách Ru-tơ được viết ít nhất là lúc đương thời Đa-vít, do đó có ý kiến cho rằng sách được Samuên viết.
III/. SỰ QUAN TRỌNG CỦA SÁCH RU-TƠ:
- So sánh với sách Các Quan Xét:
Sách RUTƠ: là sách của sự bình an (qua thái độ của Ru-tơ), tin cậy, được sản nghiệp, vui mừng phục vụ.
Giữa thời kỳ Các Quan Xét đầy tội lỗi, gian ác, nổi bật lên một người phụ nữ như Ru-tơ khác nào như Hoa Huệ giữa Gai Gốc (Nhã ca 2:2)
- So sánh với sách Ê-xơ-tê:
RU-TƠ | Ê-XƠ-TÊ |
Người nữ ngoại bang được đem về sống giữa người Y-sơ-ra-ên | Người nữ Y-sơ-ra-ên được đem về sống giữa người ngoại bang |
Có người chồng Y-sơ-ra-ên thuộc Hoàng tộc (tổ phụ vua Đa-vít. | Có chồng người ngoại bang thuộc Hoàng tộc một Đế quốc thù nghịch |
Một phụ nữ trẻ yêu thương bà mẹ chồng, hy sinh cho gia đình chồng. | Một phụ nữ trẻ yêu thương một dân tộc, hy sinh cho dân tộc mình |
CẢ HAI NGƯỜI PHỤ NỮ NẦY ĐỀU LÀ NHỮNG NHÂN VẬT VĨ ĐẠI VÀ ĐẠO ĐỨC |
- So sánh với Gia phổ của Chúa Jêsus Christ: Mathiơ 1:1-17
- Mathiơ 1:3, bà Tha-ma – Sáng. 38:
- Math. 1:5, Bà Ra-háp – Giô-suê 2:; 6:
- Math. 1:5, Bà Ru-tơ – Ru-tơ 1:-4:
- Math. 1:6b, vợ của U-ri – II Samuên 11: - 12:
. Tha-ma là nàng dâu đã lừa cha chồng để đạt được việc có thai với cha chồng bằng cách giả làm kỹ nữ.
. Ra-háp là kỹ nữ của thành Giê-ri-cô
. Ru-tơ là người Mô-áp, tức là thuộc dân tộc không được vào hội của Đức Chúa Trời.
. Bát-sê-ba là người đã làm cho Đa-vít bị mê hoặc đến nỗi Đa-vít giết chồng của bà là U-ri, rồi lại bằng lòng sống với Đa-vít.
Kỳ diệu thay, bởi Ân Điển của Đức Chúa Trời, bốn người nầy – trong đó có Ru-tơ – đã được ghi vào gia phổ của Đấng Cứu Thế, như Kinh Thánh phán:
Gal. 3:27-29; Êph. 2:8-9, 14, 26, trong Chúa Jêsus Christ không còn phân biệt người Y-sơ-ra-ên hay người ngoại bang, người nam hay người nữ, khi phục vụ Chúa.
Ghi chú: trong gia phổ của Chúa Jêsus Christ, từ A-đam đến Chúa Jêsus Christ giáng sanh có độ 60 thế hệ, chia làm 10 đời: Từ A-đam đến Nô-ê; từ Sem đến Áp-ra-ham; từ Y-sác đến Bô-ô.
- So sánh với Giáo Lý Cứu Rỗi:
b/. Đoạn 1: Giới thiệu một số tên (tên người và tên Địa phương) có ý nghĩa liên quan đến Giáo lý Cứu Rỗi (Theo J. Sidlow Baxter):
. Bết-lê-hem: Bết = Nhà; Lê-hem = Bánh (bánh mì = Bread). Bết-lê-hem là Nhà Bánh.
. Ê-li-mê-léch: Ê-li = Đức Chúa Trời của tôi; mê-léch = vua. Ê-li-mê-léch = Đức Chúa Trời của tôi là vua
Người Y-sơ-ra-ên nầy cưới một người vợ tên Na-ô-mi = ngọt ngào, đặc ân. Họ có hai đứa con là Mạc-lôn = vui mừng, bài ca, và Ki-li-ôn = Sự đẹp đẽ
Dân Y-sơ-ra-ên đời Các Quan Xét theo chế độ Thần quyền, nghĩa là Đức Chúa Trời là vua của người Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên có thể nói: Đức Chúa Trời của tôi là vua của tôi.
Nhưng dưới sự thử nghiệm đức tin qua cơn đói, Y-sơ-ra-ên mất lòng tin, tìm sự nương cậy nơi ngoại bang. Kết quả: Ê-li-mê-léch chết – Y-sơ-ra-ên không còn nói được Đức Chúa Trời là vua của tôi, kết quả kế tiếp là Mạc-lôn (vui mừng) chết, Ki-li-ôn (sự đẹp đẽ) cũng chết, không còn. Na-ô-mi trở thành Ma-ra = cay đắng (1:20)
. Cảm ơn Chúa, với quyết định quay về (ăn năn), Na-ô-mi có Ru-tơ (là bạn hữu, bạn thân, sự an ủi) cùng đi, đã gặp được Bô-ô (trong người có sức lực), do đó tìm lại được sức lực (sản nghiệp) sinh ra tinh thần vui mừng phục vụ (Ô-bết).
c/. 3:12 nói đến “người bà con vô danh” (4:6),
. Người bà con nầy có quyền ưu tiên chuộc lại sản nghiệp của Ê-li-mê-léch (4:4), nhưng khi nghe phải cưới luôn Ru-tơ là người Mô-áp, thì người đó từ chối
Người bà con nầy là LUẬT PHÁP. Luật pháp không cứu được tội nhân như chúng ta (Rôma 3:20), luật pháp chỉ định tội.
. Cảm ơn Chúa, Ru-tơ BỊ đóng lại trước Luật pháp, nhưng ĐƯỢC mở ra bởi Ân điển. Một tội nhân đến với Luật pháp (Núi Sinai) sẽ được nghe: Linh hồn nào phạm tội sẽ chết (Ê-xê-chi-ên 18:4); nhưng khi tội nhân đến với Ân điển (Núi Gô-gô-tha) thì được nghe: Giăng 5:24.
d/. Sách Ru-tơ có 17 lần dùng chữ CHUỘC, bởi đó chúng ta có một Bố cục cho sách Ru-tơ:
. 1: Người được chuộc: (Một người đáng bỏ nhưng được chuộc)
. 2:-3:, Phương pháp được chuộc: Không bởi Luật pháp (Người bà con vô danh), mà bởi ân điển (Bô-ô), vì yêu thương.
. 4: Kết quả việc được chuộc: Được sản nghiệp, được khen thưởng.
IV/. BỐ CỤC:
A/. Tổng quát:
Đề mục: RU-TƠ
Câu gốc: 1:16-17
I/. Ru-tơ quyết định – 1:
(Người con gái trung thành)
II/. Ru-tơ Phục sự – 2:
(Công việc thấp hèn: mót lúa)
III/. Ru-tơ yêu cầu – 3:
(Người nữ tài đức yêu cầu một người bà con hào hiệp)
IV/. Ru-tơ được thưởng – 4:
(Một người vợ và người mẹ được yêu thương).
Điểm nổi bật của Ru-tơ là Tình Yêu thương mà Ru-tơ dành cho mẹ chồng Na-ô-mi và gia đình bên chồng, nên chúng ta có thể chia Bố cục theo Đề Tài: TÌNH YÊU THƯƠNG
Đề mục: TÌNH YÊU THƯƠNG
- Quyết Định của Tình Yêu thương – 1:
- Hành động của Tình Yêu thương – 2:
- Đặc Tính của Tình Yêu thương – 3:
- Phần thưởng của Tình Yêu thương – 4: