15:52 EDT Thứ sáu, 19/04/2024

Trang Chủ » Tạp Chí Thần Học » Lời Chứng

Những Người Đi Trước Tôi

Thứ tư - 06/09/2017 07:23
Những Người Đi Trước Tôi

Những Người Đi Trước Tôi

Thế là năm 2014 sắp qua, chỉ vài ngày nữa thôi, tôi lại bị (hay được?) rút ngắn ngày gặp Chúa thêm một nấc. Chợt nghĩ, thế hệ của mình cũng sắp lùi vào dĩ vãng, nói theo Cố Mục sư Lê văn Thái đã nói vào năm 1960, khi ông quyết định không tái ứng cử chức vụ HộiTrưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam: “Đã đến lúc thế hệ đồng vắng phải nhường cho thế hệ Đất Hứa
 
 
 
1.    NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC TÔI
 
“Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình; hãy nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thế nào, và học đòi đức tin họ.
(Hêb. 13:7)
 
 
Thế là năm 2014 sắp qua, chỉ vài ngày nữa thôi, tôi lại bị (hay được?) rút ngắn ngày gặp Chúa thêm một nấc. Chợt nghĩ, thế hệ của mình cũng sắp lùi vào dĩ vãng, nói theo Cố Mục sư Lê văn Thái đã nói vào năm 1960, khi ông quyết định không tái ứng cử chức vụ HộiTrưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam: “Đã đến lúc thế hệ đồng vắng phải nhường cho thế hệ Đất Hứa”.
Tuy nhiên, sống trong giai đoạn (đối với cái nhìn của cá nhân tôi) rất đáng bi quan, giai đoạn ít thấy sự yêu thương lẫn nhau, ít thấy tôn trọng nhau, thường chỉ thấy uy quyền, chỉ nghe ‘quyền năng’ (dù chỉ là quyền năng ảo). Các bạn đồng khóa Thánh Kinh Thần Học Viện của tôi giờ cũng đã già, có vài người đã về hưu, còn những người ráng thêm như tôi thì như cầm cự trước gió. Thế hệ của tôi sắp qua.
Đành rằng là việc Chúa làm trên đất nước Việt Nam thân yêu, nhưng tôi sợ “hết thảy người đời ấy cũng được tiếp về cùng tổ phụ mình; rồi một đời khác nổi lên, chẳng biết Đức Giê-hô-va, cũng chẳng biết các điều Ngài đã làm nhân vì Y-sơ-ra-ên (hay Hội thánh tại Việt Nam), do đó tôi cố ghi lại những gì tôi đã được nghe, hoặc thấy nơi Những Người Đi Trước để người đời sau còn biết điều Đức Giê-hô-va đã làm trên Hội thánh của Chúa tại Việt Nam để họ biết ơn Chúa thì cũng cảm tạ Chúa vì Chúa đã dùng những cây gậy của Môi-se, những người nhỏ nhất trong chi phái nhỏ nhất trong các chi phái như Ghê-đê-ôn, như những người đánh cá quê mùa xứ Ga-li-lê, như em bé có 5 cái bánh và hai con cá,… Nói như Phao-lô: “Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng có nhiểu kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; Đức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời…” (I Côr. 1:26-29).
Dĩ nhiên, ngay cả các thánh đồ được Chúa cho ghi trong Kinh thánh, ai cũng mang lấy bản tánh yếu đuối của con người, cũng đầy vết tích của tội lỗi, như Áp-ra-ham sợ chết vì vợ đẹp nên phải nói dối nửa vời để rồi bị người thế gian như vua Ai Cập trách mắng (Sáng. 12:10-20); yếu đuối như Môi-se không nén giận được phải thốt lên lời trách Chúa: “Sao Ngài làm cho tôi tớ Ngài buồn? Sao tôi chẳng được ơn trước mặt Ngài, và sao Ngài lại chất gánh nặng của hết thảy dân sự nầy trên mình tôi? Tôi há có thọ thai dân nầy sao? há có sanh đẻ nó sao? mà Ngài lại phán biểu tôi rằng: Hãy ẵm dân nầy trong lòng ngươi, như người cha nuôi bồng đứa trẻ bú…” (Dân. 11:10-12). Nhiều khi đọc lời so sánh của Gia-cơ: “Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta” (Giacơ 5:17), tôi lại cứ phải nói: “Ê-li vốn là người yếu đuối HƠN chúng ta”; mà Ê-li yếu đuối thật, yếu đuối quá chừng, vừa mới thắng một trận hào hùng trên núi Cạt-mên, thì chạy trối chết chỉ vì sợ chết, để rồi đòi Chúa cho chết (I Vua 19:1-5). Rồi một tiên tri giận hờn với Chúa như Giê-rê-mi, ông đã nói lẫy với Chúa: “Hỡi Đức Giê-hô-va… trọn ngày tôi cứ làm trò cười, và ai cũng nhạo báng tôi… Tôi sẽ chẳng nói đến Ngài nữa; tôi sẽ chẳng nhân danh Ngài mà nói nữa…” (Giê. 20:7-9). Nói đến những tiên tri thánh đồ yếu đuối mà không nói đến Tiên tri Giô-na là thiếu sót, từ việc trốn tránh vâng mạng lịnh của Chúa bằng cách đi ngược hướng tây thay vì hướng đông, rồi giận hờn với Chúa bên ngoài thành Ni-ni-ve, với những lời gọi là “cầu nguyện” thiếu tôn kính đối với Đức Chúa Trời.
Đó là những bậc thánh đồ Cựu Ước, còn Tân Ước thì chúng ta không thể không nhớ những lời Phao-lô quở trách Phi-e-rơ trong Galati 2:11, “Nhưng khi Sê-pha đến thành An-ti-ốt, tôi có ngăn can trước mặt người, vì là đáng trách lắm. Bởi trước lúc mấy kẻ của Gia-cơ sai đi chưa đến, thì người ăn chung với người ngoại; vừa khi họ đã đến thì người lui đứng riêng ra, bởi sợ những kẻ chịu phép cắt bì. Các người Giu-đa khác cũng dùng một cách giả dối như vậy, đến nỗi chính Ba-na-ba cũng bị sự giả hình của họ dẫn dụ. Nhưng khi tôi thấy họ không đi ngay thẳng theo lẽ thật của Tin Lành, thì nói với Sê-pha trước mặt mọi người rằng: nếu anh là người Giu-đa, mà ăn ở theo cách dân ngoại, không theo cách người Giu-đa, thì làm sao anh ép dân ngoại phải theo thói Giu-đa?” Và chính Phao-lô tự xác nhận sự yếu đuối sợ chết của chính ông, “Ví phải khoe mình, thì tôi sẽ khoe mình về sự yếu đuối tôi. Đức Chúa Trời là Cha Đức Chúa Jêsus, là Đấng đáng ngợi khen đời đời vô cùng, biết rằng tôi không nói dối đâu. Ở thành Đa-mách, quan tổng đốc của vua A-rê-ta giữ thành của người Đa-mách để bắt tôi. Có người từ cửa sổ dòng tôi xuống, bằng một cái giỏ (con người thì không ở trong cái giỏ, cái giỏ chỉ để dành cho súc vật), dọc theo lưng thành, ấy vậy là tôi thoát khỏi tay họ” (II Côr. 11:30-33). Sứ đồ Giăng cũng vậy, khi bị đày ngoài đảo Bát-mô với bao khổ cực mà tuổi già phải gánh chịu, khi gặp Chúa Jêsus Christ của ông hiện ra, Giăng đã ngã xuống nơi chân Chúa như một đứa bé ùa vào lòng người cha người mẹ yêu thương tìm che chở (Khải. 1:17).
Không phải tôi biện hộ cho những yếu đuối, nhưng tôi thấy rõ là Đức Chúa Trời dùng các vị đó vì họ rất thành thật, không lịch sự giả dối; Đức Chúa Trời không dùng người yếu đuối nhưng Chúa dùng người yếu đuối mà biết mình yếu đuối để hạ mình ăn năn. Điều quan trọng dù muôn ngàn yếu đuối, tất cả đều là bởi “ân điển”, không ai hơn ai. Một người hầu việc Chúa nói với tôi, họ là người yếu đuối bị thấy được; chúng ta là người yếu đuối chưa bị thấy được.
Tôi nói như vậy vì Những Người Đi Trước trong lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam có mặt yếu đuối nào đó là không tránh khỏi, tất cả chúng ta phải nói như Tiên tri Ê-li rằng: “… vì tôi không hơn gì các tổ phụ tôi” (I Vua 19:4). Tất cả chẳng qua như Phao-lô nói: “… Đức Chúa Trời, là Đấng đã để riêng tôi từ trong lòng mẹ, và lấy ân điển gọi tôi… Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin…” (Gal. 1:15; Êph. 2:8). Nếu có ai muốn xét đoán họ, thì mặc, vì Đức Chúa Trời đã dùng họ để viết nên lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Tôi nói với con tôi rằng, tại ngày nay các con nuôi các con của các con rất dễ, từ cái ăn, cái mặc, cái học, đến môi trường chính trị và xã hội, nên không còn nhớ cha mẹ nuôi các con trong hoàn cảnh khó nhọc thế nào. Cũng vậy, thế hệ ngày nay hầu việc Chúa rất dễ nên không hề cảm thông - nếu không muốn nói là phải cảm phục Những Người Đi Trước. Ngược lại, thế hệ trẻ ngày nay được lớn lên trong những điều kiện quá dễ, ngay cả cũng không bị đòn roi sửa phạt khi làm sai, nên hầu như không còn hiểu được câu ca dao: “cha mẹ nuôi con dãi dầu mưa nắng”, do đó khi họ lớn lên họ “nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”. Thế hệ mang chức vụ bây giờ ít khi nghĩ đến công khó của các bậc Những Người Đi Trước, đôi khi còn chê các vị đó sao giảng dở quá, sao ít học quá, sao chẳng biết ngoại ngữ, chẳng biết tiếng Hi-bru, chẳng biết Hi văn, hoặc tai hại là dường như không biết gì con đường gian nan buổi đầu của Những Người Đi Trước phải đối diện: họ phải đối diện với một nền văn hóa lạ lẫm về Tin Lành của một nhân vật lạ lẫm là Jêsus; họ không có tài liệu tham khảo, không có phương tiện truyền thông rộng rãi để hiểu biết. và cũng không có cái ăn cái mặc tạm no tạm ấm, để mà hầu việc Chúa. Kỳ diệu thay, vậy mà các bậc Những Người Đi Trước đó đã được Chúa dùng xây lên ngôi nhà Hội thánh của Chúa còn đến ngày nay!
Tôi đã bắt đầu dài dòng quá. Tôi xin vào câu chuyện của Những Người Đi Trước MÀ TÔI BIẾT và đa phần thuộc miền Nam Việt Nam là nơi tôi được sinh ra, lớn lên và có dịp nào đó tiếp cận các vị ấy. Vì vậy, tôi rất mong câu chuyện tôi viết đây chỉ là viết tiếp khúc dạo đầu của Cố Mục sư Phạm Xuân Tín với tập sách nhỏ “Đời Tận Tụy” để hoàn thành bài ca ngợi khen Chúa như Thi thiên 139:14, “Tôi cảm tạ Chúa, vì tôi được dựng nên cách đáng sợ lạ lùng. Công việc Chúa thật lạ lùng, lòng tôi biết rõ lắm”, rồi có ai đó viết tiếp, viết tiếp cho đến khi Chúa đến. Tôi viết từ những gì tôi nhớ, tôi nghe… Hãy đọc để biết nhé.
 
 
 
2.    MỤC SƯ ÔNG VĂN HUYÊN.

***************

 
Tôi nói đến Cố Mục sư Ông văn Huyên trước không phải vì Cụ Mục sư là người tin Chúa trước, nhưng là vị Mục sư được nhiều người trong Hội thánh của Chúa tại Việt Nam biết, đặc biệt Cụ Mục sư là Thầy của rất nhiều Mục sư Truyền đạo Việt Nam.
Khi tôi bước chân vàoThánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành tại Nha Trang thì bóng dáng của Mục sư Viện Trưởng Ông văn Huyên loáng thoáng qua lại trên sân của Viện điều động các Sinh viên Trường ổn định với lời dặn: “Để đồ đạc vô phòng rồi xuống phòng ăn ngay”. Lý dó vì chuyến bay của chúng tôi từ Sàigòn ra Nha Trang bị trễ từ 8 giờ 45 sáng mãi đến 8 giờ 45 tối mới bay, và đáp xuống với mọi thủ tục hành lý xong, về đến Viện đã hơn 10 giờ khuya. Thế mà vào giờ đó, Cụ Mục sư Viện Trưởng vẫn còn lo cho chúng tôi.
Những ngày học tại Viện, qui định của Viện là sau 10 giờ tối, các sinh viên phải tắt đèn để ngủ nghỉ. Có người thì làm theo, có người thì do học bài (nhất là những lúc chuẩn bị thi), có người thì lý do riêng nên thắp đèn dầu sau khi đèn điện tắt. Tôi có người bạn cùng Khóa, đêm đêm thường chong đèn không phải để học bài mà để nhìn ra hướng biển khuya một mình im lặng để nhớ về người yêu ở quê nhà. Có lúc chợt đi ngang, tôi hỏi: Sao không ngủ? Anh thành thật trả lời: Nhớ quá! Những đêm khuya quá giờ như vậy, thỉnh thoảng có người chạy ngang qua các phòng báo động: Cụ đến! Ai nấy tắt đèn chờ tiếng chân Cụ xa dần, có nơi nghe tiếng Cụ Viện Trưởng gõ nhẹ cửa nhắc: “Tắt đèn ngủ đi”, rồi Cụ lại đi tiếp, chẳng rầy rà gì.
Cụ Mục sư Ông văn Huyên là người theo Nho học, được Đức Chúa Trời kêu gọi dâng mình phục vụ Chúa, đặc biệt khi Ban Trị Sự Tổng Liên Hội với tinh thần tự lập - tự truyền giáo, biểu quyết người đứng đầu Trường Kinh thánh phải là người Việt Nam thay vì một Giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA), thì Mục sư Huyên được mời về giữ vị trí Đốc học Trường Kinh thánh tại Đà Nẵng. Đến năm 1960, Trường dời vào Nha Trang đổi tên thành Thánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành, thì Mục sư Ông văn Huyên là Viện Trưởng tiếp tục điều hành.
Trong Viện, Cụ Mục sư vừa giữ vị trí Viện Trưởng, vừa là Giáo sư dạy vài môn như Việt văn 4, Bốn Sách Tin Lành Tham Khảo, Tuyên Đạo Pháp. Tánh của Cụ Mục sư có lẽ xuất thân từ Nho học nên rất nghiêm khi điều hành hoặc khi dạy, nổi bật là không kiêng nể ai, trong khi ai cũng kiêng nể Cụ. Năm đó, Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng gởi điện tín từ Sàigòn báo tin sẽ đến phi trường Nha Trang lúc 3 giờ chiều, nhờ Cụ Viện Trưởng đón về Viện. Vì lý do máy bay bị trễ cũng không có điện thoại di động báo tin,trong khi Cụ Mục sư Viện Trưởng đã ra phi trường chờ từ trước 3 giờ. Chờ mãi đến hơn 4 giờ, không thấy Mục sư Hội Trưởng đến, Cụ Viện Trưởng quay về Viện. Một lúc sau, mấy anh em Ban Tốt Nghiệp chúng tôi đang ngồi trò chuyện với Bà Cụ Viện Trưởng thấy Mục sư Hội Trưởng được Mục sư Phan Sĩ Kiểm Chủ tọa Hội thánh tại Nha Trang chở vào, đứng trước cửa nhà của Mục sư Viện Trưởng, một chốc sau, Mục sư Viện Trưởng mở cửa bước ra và nói với Mục sư Hội Trưởng: “Sao ông nói 3 giờ đến mà bây giờ mới tới? [hơn 5 giờ]. Ông ngồi chờ tôi ngoài đó đi, tôi đi có việc” Cụ Mục sư Viện Trưởng bước nhanh vòng qua ngồi vào xe hơi của Cụ, nổ máy chạy đi. Mục sư Hội Trưởng im lặng quay ra băng đá ngoài sân ngồi chờ. Chúng tôi vội vàng đi ra chào Mục sư Hội Trưởng rồi trở vào nghe Bà Cụ Viện Trưởng thuật lại câu chuyện éo le nầy. Trong Viện, mỗi lần ai đó nghe nói có: “Cụ kêu”, biết 99% là bị rầy rà gì đó. Cá nhân tôi, một lần “bị” Cụ kêu. Khi tôi bước vào văn phòng của Cụ, thấy trên tay của Cụ có một bao thư. Sau khi Cụ cho ngồi, Cụ hỏi: “Thầy có quen ai tên Hương không?” Tôi trả lời: "Dạ có, đó là chị của con ở Biên hòa”. Cụ không nói gì, lẳng lặng đưa cho tôi bao thư do chị của tôi gởi từ Biên hòa. Bao nhiêu thắc mắc hiện lên trong trí, nhiều anh em đồng khóa bao quanh hỏi tôi lý do “Cụ kêu”, sau một lúc bàn tán, có người ‘À hóa ra Cụ nghi ngờ một nữ sinh viên trong Viện tên Hương mà anh em gán ghép cho tôi, đang làm Thủ quỹ Ban Thiếu Nhi của Viện mà tôi là Trưởng Ban. Chuyện chỉ có thế mà cũng ầm lên một lúc khiến Cụ Viện Trưởng nghi ngờ, còn tôi thì bị “Cụ kêu”. Khi dạy, Cụ Mục sư Viện Trưởng dường như không hề cười một lần nào, chỉ bước vào dạy và hết giờ lại đi ra sau khi một anh em cầu nguyện.
Tuy nhiên, đó là trong Viện, còn ra ngoài thì chúng tôi gặp một Mục sư Ông văn Huyên đầy cá tính, vui và nghịch. Cụ chạy qua cầu Xóm Bóng, thời đó cầu hẹp, lại dài, những người đi bộ phải đi trên lề cầu. Một phụ nữ đội nón lá đi bộ dười lòng đường xe chạy, Cụ đang lái chiếc Land Rover phía sau, Cụ nhấn kèn inh ỏi, nhưng người phụ nữ đó dường như không nghe nên cứ bình tĩnh đi – dù đi sát lề cầu. Cụ Viện Trưởng lách xe ngang qua và vói tay vỗ vào nón lá của chị phụ nữ ấy, trong lúc chúng tôi méo mặt thì Cụ cười vang có vẻ thích chí tiếp tục chạy. Một lần Cụ chở vài anh em đi cùng trong một chuyến đi xa, nửa đường ghé vào quán nước bên đường, Cụ kêu dừa tươi uống. Chúng tôi đều ngồi chờ nhà quán chặt dừa, thì Cụ đứng lên tự tay lựa dừa, tự tay giạt mặt dừa và dốc trái dừa lên uống tự nhiên, không cần ly, cả bọn chúng tôi ngỡ ngàng. Nhớ dịp Hôn Lễ của Thầy Truyền Đạo Phan Minh nghĩa, trong phần kể chuyện vui, Cụ được người dìu lên trước microphone [vì lúc ấy mắt Cụ không còn thấy đường nhưng vì lòng yêu thương Thầy Nghĩa là con của Mục sư Phan Sĩ Kiểm, nên Cụ cố gắng đi dự), Cụ kể rằng khi hầu việc Chúa tại Vĩnh Long, hai Cụ giận nhau, Cụ đạp xe chạy vòng vòng ngoài phố, quá trưa bụng đã đói, nhưng tự ái nên không về, bèn ghé tiệm bán hũ tíu kêu một tô. Trong khi chờ đợi đem tô hũ tíu ra, Cụ chợt nghĩ chốc nữa làm sao cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn được, vì trong lòng còn giận? Ngẫm nghĩ, Cụ đứng lên trả tiền rồi ra về. Về đến nhà thấy Bà Cụ còn ngồi nơi bàn ăn chờ, Cụ không làm gì khác hơn là ngồi ngay vào bàn ăn cảm ơn Chúa và Cụ đưa ra câu triết lý: “Cơm nguội cũng ngon!’
Thật sự mỗi lần vào giờ của Cụ, chúng tôi rất lo, rất sợ, cái cảm giác tự nhiên len vào. Một phần Cụ rất nghiêm trang khi dạy, một phần ai cũng bị ‘giũa’ khi giảng thực tập, một phần Cụ dùng từ rất chính xác theo Nho học. Thí dụ, khi dạy môn Tuyên Đạo Pháp, anh em chúng tôi mỗi người được Cụ cho một đề tài để soạn bài giảng theo Phương pháp Đề tài. Đề tài được Cụ cho trước một hoặc hai tháng. Ai lên giảng cũng bị mổ tới bến, từ việc phải đúng thì giờ ấn định là 20 phút, bố cục phải phân minh để mọi người ghi lại rõ ràng… Có anh em được phân công giảng đề tài ‘Chiếc Tàu Lạ Lùng’, giảng xong, Cụ bước lên bục với câu nói: “Thầy giảng ‘Chiếc Tàu Lạ Lùng’ mà bài giảng của Thầy cũng lạ lùng, chẳng thấy chiếc tàu lạ lùng ở chỗ nào”. Một lần khác một anh em giảng đề tài mà Cụ giao cho là ‘Con Chiên của Chúa’, sau khi giảng, Cụ nói: “Thầy giảng ‘Con Chiên của Chúa’ mà tôi không hiểu Thầy giảng ‘con gì’?” Một anh em được Cụ giao đề tài: "Đạo”. Tội nghiệp, Thầy ấy đóng cửa bù đầu soạn bài viết từng lời trên quyển tập 100 trang suốt cả hai tháng, chúng tôi chỉ thấy mặt Thầy ấy vào giờ cơm hoặc những môn chính khác. Đến hẹn, Thầy lật đật chạy qua nhà của Cụ xin khất lại, một lần, hai lần, đến lần thứ ba, Cụ bắt buộc phải giảng, không cho khất nữa. Thầy ấy đứng lên trong lớp với mái tóc bù xù, gương mặt hốc hác – có lẽ vì thiếu ngủ, giảng được khoảng 10 phút, một cơn gió biển từ Hòn Chồng Nha Trang thổi vào phòng làm tập ghi bài giảng của Thầy tự động lật lật, Thầy vội cúi xuống tìm lại trang đang giảng, một chốc sau, Thầy ngước lên và nói: “Thưa Cụ, con quên hết rồi”. Thế là một cơn nín cười giữa anh em chúng tôi diễn ra không chịu được. Bởi đó từ lúc nào, trong Viện các sinh viên đi trước để lại chuyền tay nhau một tập tài liệu ghi lại bố cục những bài giảng mà Cụ Viện Trưởng thường hay ra đề cho sinh viên, những bố cục nầy đã được sửa chữa sau khi ‘bị’ Cụ phê bình. Tôi không biết trong đó ghi thế nào, chỉ thấy nhiều người có được thì tỏ ra rất tự tin, nhưng tôi để ý, người nào lên giảng thực tập cũng đều bị Cụ ‘mổ xẻ’tan nát dù có hay không có quyển bí kíp hóa giải Tuyên Đạo Pháp.
Học thì qui định giảng 20 phút, nhưng ra Trường, người nào cũng kéo dài 40 – 50 phút, nói lén mà nghe, chính Cụ là Thầy cũng dài như thế. Có một đêm giao thừa, anh em trong Viện họp lại liên hoan nơi phòng ăn, tôi bận phải vẻ sơ đồ cho Giáo sư David Douglas nên không dự. Thình lình nghe tiếng của Mục sư Kiều Toản là Giám thị của Viện nói ngoài cửa: ‘Thầy Sơn, Thầy không xuống nghe mấy thầy đó hò Cụ Viện Trưởng kìa. Họ hò: ‘dạy thời không dạy, phê bình lung tung’, hò lơ hó lơ lắng nghe tiếng ai hò lờ. Chuyện là thầy Nguyễn Thái Bình (hiện là Mục sư qưản nhiệm Hội thánh ở Mõ Cày - Bến Tre) tác giả mấy câu hò đó vì Cụ Viện Trưởng một mình gánh rất nhiều công việc Chúa, vừa là Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện, vừa phải đi họp với Ban Trị Sự Tổng Liên Hội dù Cụ không phải nhân viên Tổng Liên Hội nhưng khi Ban Trị Sự Tổng Liên Hội có những việc không giải quyết được thì phải nhờ đến Cụ với uy tín cá nhân giúp đỡ. Điển hình như khi Ban Trị Sự Tổng Liên Hội muốn thay đổi những mục sư trong ngành Tuyên Úy Quân đội giống như Điều Lệ Hội thánh Tin Lành Việt Nam là các Mục sư Truyền đạo chủ tọa phải theo nhiệm kỳ hai năm. Trong khi đó có những vị mục sư đã ở trong ngành Tuyên Úy quá lâu vịn lý do qui chế quân đội không cho giải ngũ nên từ chối thi hành biểu quyết của Tổng Liên Hội theo Điều Lệ. Sự việc căng thẳng, Cụ Viện Trưởng được mời ra mặt để lên tiếng. Cảm ơn Chúa, cuối cùng các vị đều chấp nhận giải ngũ để thay một loạt các vị mới theo Điều Lệ Hội thánh chung. Rồi vì tuổi đã cao, nên sức khỏe của Cụ kém, thường hay bị bịnh, nhất là mùa Đông, Cụ hay bị bịnh nơi chân. Do đó, Cụ thường phải bỏ lớp. Khi Cụ nghỉ không dạy thì anh em hầu hết đều vui mừng (đời đi học không có gì vui hơn khi giáo sư nghỉ dạy!), nhưng cũng phải xin Chúa tha thứ là anh em chúng tôi cũng yêu thương Cụ lắm, cũng có lần nhờ người mua giúp ít cam rồi cử tôi với thầy (bây giờ là mục sư Trí sự rồi) Phan Chí Tâm đại diện qua thăm Cụ. Khi được Cụ cho vào gặp, chưa nói câu nào, chúng tôi nghe Cụ (đang nằm) nói: 'Cảm ơn Quý Thầy, cầu nguyện cho tôi là đủ rồi. Mấy thầy đem cam về đi’. Tôi và ‘thầy’ Tâm nói vài lời rồi ra gặp Bà Cụ ở nơi bếp, Cụ Bà nói: ‘Lúc sáng, cô Ba Liễu (nữ sinh viên lớn tuổi) đem qua một chục cam, ông nhà tôi rầy lắm, bảo để dành tiền lo học, rồi nhất định bảo đem trả lại cho người ta.’ Anh em tôi phân trần là bây giờ đem về làm sao trả lại, rốt lại Bà Cụ bảo thôi thì để đó, Bà Cụ sẽ lựa lời nói với Cụ Viện Trưởng.
Còn việc dùng từ. Trong môn Việt văn 4 của Cụ, Cụ không chịu dùng từ ‘trường hợp’ mà phải là “trường hiệp’, Cụ giải thích: ‘Trường’ là chữ Hán; ‘Hợp’ là chữ nôm, chữ Hán không thể đi với chữ nôm. Thế là chúng tôi bị trừ điểm. Khi làm bài, chúng tôi viết từ ‘Cô Đơn’ bị Cụ trừ điểm và phải viết ‘Đơn Côi’. Chính những lúc bị trừ điểm nầy khiến chúng tôi cẩn thận khi dùng từ lúc sửa soạn bài giảng. Tôi nhớ Học giả Nguyễn Duy Cần đã khuyên: ‘Dùng từ phải chính xác’. Ông so sánh người viết văn dùng từ như người thợ mộc bào gỗ, người thợ giỏi bào gỗ nhìn như không có bào; ông cũng ví với sự trang điểm của người phụ nữ, người phụ nữ trang điểm khéo nhìn như không có trang điểm. Ôi học thì thế mà thực tế anh em giảng dạy ít khi quan tâm. Có người hỏi Học giả Nguyễn Huệ Chi nên dùng ‘Tin Lành’ hay ‘Tin Mừng’? Ông Huệ Chi đã trả lời: Trong đời sống có rất nhiều ‘Tin Mừng’, nhưng ‘Tin Lành’ có tánh cách đặc biệt hơn, nên ông khuyên dùng ‘Tin Lành’ khi nói về Đạo Tin Lành. Chí lý thay!
Điều tôi luôn nhớ Người Thầy đáng kính nầy là sự sạch sẽ trong sự thờ phượng Chúa. Ban Ngũ Niên của chúng tôi theo qui định của Thánh Kinh Thần Học Viện phải chịu trách nhiệm quét dọn nhà thờ của Viện mỗi thứ bảy chuẩn bị cho buổi thờ phượng Chúa vào Chúa nhật. Điều tôi chú ý là khi vào nhà thờ, Cụ luôn luôn dùng tay vuốt nhẹ trên băng ghế kiểm tra có được quét lau sạch sẽ không. Đặc biệt là mỗi Chúa nhật đầu tháng, chúng tôi đã được chỉ dẫn là chỉ các Sinh viên nam làm Tiệc Thánh, tất cả những dụng cụ cắt bánh, vì thời đó chỉ có bánh mì được dùng làm bánh Tiệc Thánh, nên bánh mì được cắt bỏ phần da bánh, rồi cắt miếng vuông nhỏ độ một phân. Chiếc kéo hoặc dao cắt bánh phải để riêng chuyên dùng cho Tiệc Thánh. Phần nước nho Tiệc Thánh thì Cụ căn dặn đừng rót đầy, chỉ rót hơn nửa ly một chút. Nói chung, tuần Tiệc Thánh nào Cụ cũng để ý kiểm tra bánh, ly, nước nho có sạch sẽ không và có chu đáo không, nếu mâm ly không sạch sẽ, nước nho rót không đều, chắc chắn ngày thứ hai sẽ bị “Cụ kêu” – chúng tôi nói gọi là bị “Cụ ca”. Tiếc thay đó là một gương mẫu cần học và giữ lấy, nhưng khi ra Trường, lại ít được anh em hầu việc Chúa lưu tâm. Tôi nhớ có lần đến giảng tại một nhà thờ, khi dừng xe chỗ để xe, bất chợt tôi nhìn thấy hai thiếu nhi đang ngồi bên ngoài cửa đi nhà bếp của mục sư chủ tọa, có trải tờ báo và hai thiếu nhi đang làm Tiệc Thánh, tôi phải yêu cầu hai em đứng lên đem tất cả vào nhà bếp và xin để tự tôi làm. Có lần khác, khi người bưng mâm nước nho đến cho tôi, bất ngờ tôi nhìn thấy qua những cái lỗ để ly từ trong mâm có đôi mắt đen lay láy nhìn lên tôi - một con thằn lằn nằm trong mâm! Còn vài chuyện hi hữu đáng buồn từ những sự thiếu tôn trọng Lễ Tiệc Thánh. Phải chăng anh em đã quên gương của Thầy mình.
Có lẽ tại tánh của Cụ rất nghiêm, làm thầy thì tốt nhưng làm lãnh đạo thì khó, nên suốt chiều dài lịch sử của Hội thánh Chúa tại Việt Nam, Cụ chỉ giữ đến chức vụ Tổng Thơ Ký Tổng Liên Hội. Phải đợi đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, với áp lực của Chánh quyền mới không chịu để Mục sư Đoàn văn Miêng tái ứng cử chức vụ Hội Trưởng, nên Ban Trị Sự Tổng Liên Hội trong phiên họp kín với Cụ Viện Trưởng (theo lời Mục sư Nguyễn Hữu Thế là Nghị viên Tổng Liên Hội) đã thuyết phục Cụ để tên ứng cử và là ứng cử viên duy nhất cho chức vụ Hội Trưởng nhiệm kỳ mới. Bài diễn văn độc đáo của Cụ sau khi đắc cử trong thời điểm lịch sử của Đất Nước cũng là thời điểm lịch sử của Hội thánh Chúa tại Việt Nam, Cụ nói: “TÔI XIN LÀM NGƯỜI GÁC CỬA QUA ĐÊM, CHỜ BAN MAI ĐẾN! Chúng ta tiếp tục việc bầu cử”. Không ngờ Cụ phải giữ cương vị Gác Cửa suốt hơn 20 năm (1976-1999), trong cảnh mù lòa sau mấy lần giải phẫu mắt không thành công, đến nỗi một lần được thăm Cụ, tôi nghe Cụ thốt lời: “Tôi làm người gác cửa qua đêm, mà sao đêm dài quá!”.
Ngày Cụ về Nước Chúa, tôi viết một bài Điếu văn kính viếng Cụ như sau:
ĐIẾU VĂN
KÍNH VIẾNG CỤ HỘI TRƯỞNG
Mục sư ÔNG VĂN HUYÊN
Theo Chúa chịu khổ, giá thập tự,
Làm tôi trung tín, mão triều thiên.[1]
Thương tiếc,
Đời người ngắn ngủi, ví thể hoa rơi,
Đã bảo rằng: ‘Thất thập cổ lai hi’, Môi-se bảo ‘tám mươi là bất quá’
Cụ Hội Trưởng, Mục sư tộc Ông văn, húy Huyên, lại đã gần tròn thế kỷ, chín mươi tám, đường trời vui bước.
Sinh là ký, tử là qui, trung với Chúa, nay Cụ qui về Thiên quốc, mệnh đã thọ mà danh cũng thọ.
Tưởng nhớ:
Chí nam nhi, người quân tử, chữ trung làm trọng, nghe Chúa gọi một phen buổi Tin Lành sơ khởi, Cụ dâng mình gánh vác.
Một lòng khao khát, dự học Lời Thánh Kinh, thỏa chí tôi trung, dẫu thế mấy thân cũng còn hỉ lạc.
Hết dạ ước mơ, dạy khuyên Người Truyền Đạo, trọn niềm tớ thánh, cảnh ngộ nào hồn cũng anh linh.
Trải chức vụ Chúa ban, Trung Nam chủ tọa, Đốc học, Viện Trưởng, lại họp bàn cho công việc Chúa chung. Qua mấy Hội, Thánh Kinh trường, Thánh Kinh Thần Học Viện, một đời sản sinh người hầu việc. Những ước mơ Ơn Trời đền đáp, trong ngày thử thách, tuổi bảy mươi tư, lại phải đứng lên làm người gác cửa qua đêm, chờ ban mai đến.
Nào hay đêm chưa tàn, một phần tư thế kỷ, vầng thái dương chưa mọc, mà tuổi đã đầy, đau một bịnh, Sứ Trời đón rước…
Hỡi ôi, tội lỗi hại thay, đất hoàn tro bụi!
Chúng tôi,
Tiếc người trung tín, xót nghĩa Thầy Trò,
Một Thân Đấng Christ, cùng chịu cùng vinh.
Tâm đã vui, xác tỏ dạ bùi ngùi, quyết noi gương Người Thầy-Tớ Thánh.
Nhớ Lời Thánh Kinh dạy bảo: vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm việc gì cũng tạ ơn Chúa, ngâm một khúc thay lời tiễn biệt.
Bởi yêu Chúa, đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, giữ được niềm tin. Cụ chết vẫn còn, nơi Thiên quốc vui mừng, xác tạm gởi chờ ngày Chúa đến.
PHƯỚC THAY! PHƯỚC THAY!
 
Nhớ Thầy, Kính Viếng.
Mục sư Trần Thái Sơn.
Ngày 19 tháng 7 năm 1999.
Không biết tại sao Chúa không cho hai Cụ có con, không biết có phải vì Cụ đã dự phần dịch Kinh thánh mà ra không (vì tôi để ý những người dịch Kinh thánh tiếng Việt thời của Cụ đều gặp những biến cố không bình thường: Cụ Mục sư John Drange Olsen thì bị xe tông chết tại Ngã Sáu Saigon là người không có con; nhà văn Phan Khôi đáng lẽ là người sẽ tin Chúa vì phải đọc và nghiên cứu Kinh thánh tận tường, nhưng không tin dù rất tốt trong công việc dịch và có lòng khuyến khích nhiều người đọc Kinh thánh; Mục sư Ông văn Huyên không có con; Mục sư Lê Hoàng Phu không có được gia đình… - tôi chỉ nói những lời nầy cách dè dặt, vì tôi tin rằng các vị ấy không hề có ý thêm bớt Lời Chúa, chỉ e vô tình nào đó. Nhưng bù lại Chúa cho hai Cụ có quá nhiều con trong chức vụ. Chúa phán: “Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi… Xin Ý Cha được nên…” (Êsai 55:8; Math. 6:10).
_______________
 
 
 
3.    MỤC SƯ LÊ-VĂN-THÁI


 
Điều quan trọng là những người tin Chúa Việt Nam có thể biết đời sống chức vụ của Mục sư Lê văn Thái bằng cách đọc ‘Hồi Ký 46 Năm Chức Vụ’ của chính Cụ Mục sư viết, tự Cụ xuất bản năm 1970. Phải nói là hiếm hoi mới có một người hầu việc Chúa tự viết hồi ký và tự in ấn xuất bản như vậy.
Tại sao Cụ Mục sư Lê văn Thái tự viết Hồi ký như thế? Câu trả lời là vì Cụ Mục sư Thái là người được Chúa cho ân tứ đọc sách và thích viết sách. Điều đáng tiếc là trong hàng ngũ những người Việt Nam hầu việc Chúa, chỉ có Cụ Mục sư Lê văn Thái và Cụ Mục sư Phạm Xuân Tín viết sách. Trong những Văn phẩm Tin Lành Việt Nam, chúng ta sẽ gặp khá nhiều đầu sách của Cụ Mục sư Lê văn Thái. Sau đây, tôi cũng xin chép lại lời giới thiệu của Nhà Xuất Bản Tin Lành năm 1965:
·         ‘Người Truyền Đạo của Đức Chúa Trời’, trong quyển nầy Cụ viết cho một môn học gồm 7 Chương, từ
1.      Luận về Sự Kêu gọi
2.      Luận về hiểm họa của người Truyền Đạo,
3.      Luận về đề tài của Người Truyền Đạo
4.      Luận về Người Truyền Đạo trong Văn phòng,
5.      Luận về Người Truyền Đạo trên Tòa Giảng.
6.      Luận về Người Truyền Đạo giữa Gia Đình
7.      Luận về Người Truyền Đạo như người kinh doanh.
Rõ ràng quyển sách (hay môn học) thật rất cần cho người nào muốn dâng mình hầu việc Chúa tự xét mình trước khi quyết định dâng mình và người đã dâng mình thì cẩn thận thi hành chức vụ. Đây cũng là môn học bị bỏ quên trong Giáo trình dành cho Người Hầu Việc Chúa ngày nay.
1.      Chiến Sĩ Thập Tự
Quyển “Chiến Sĩ Thập Tự” chứa đựng hình ảnh, tiểu sử và hai mươi bài giảng linh động nhứt của hai mươi vị lãnh tụ trong Hội thánh, từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ hai mươi.
Mặc dầu mỗi thời đại đều khác nhau, nhưng ơn phước và quyền năng của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ vẫn không hề thay đổi đối với người có lòng tin cậy cách vững bền và thánh khiết.
Theo thứ tự thời gian từ thế kỷ thứ tư đến nay (thế kỷ 20), các bài giảng trong sách nầy, một số bài đã được viết ra trong quá khứ xa xôi cách đây trên dưới ngàn năm. Mỗi thời đại lịch sử đều mang một bản sắc riêng, nên lối hành văn đối với chúng ta ngày nay có phần xa lạ, dù quyền năng của Tin Lành vẫn thủy thung như nhứt. Chúng tôi cố gắng phiên dịch với nguyện vọng làm sao để có thể phản ánh được đúng cách nhìn và lối nói của từng tác giả đương thời. Tuy nhiên, chắc hẳn còn rất nhiều khuyết điểm. Mong rằng quí vị đọc giả vui lòng bỏ qua cho những sơ hở kém cỏi trong thuật dụng văn; như thế, mới có thể nhận thức trọn vẹn quyền năng siêu việt của Đức Chúa Trời trong Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus Christ, đã được thể hiện trên đời sống của những người đầy đức tin trải qua các thời đại, lớn lạ là dường nào! (Lời giới thiệu Sách)
2.      Những Tia Sáng I (Bố cục bài giảng). Phác họa hơn bốn trăm bài giảng theo
1.      Đề mục
2.      Câu gốc.
3.      Tiểu sử
4.      Giải nghĩa Kinh thánh từng câu, từng đoạn, từng khúc.
5.      Những tiếng cùng nghĩa, những chữ trùng ý.
6.      Sắp theo thứ tự từ Sáng thế ký đến Khải thị. Mỗi sách có ít nhứt là một bài giảng theo đoạn và câu Kinh thánh.
3.      Những Tia Sáng II (truyện làm thí dụ)
Gồm bốn trăm truyện làm thí dụ đã được sưu tầm chọn lọc hoặc trích ra từ các sử liệu, báo chí, v.v… Những tài liệu nầy dùng để soi sáng cho các BÀI GIẢNG, rất cần cho quí vị Mục sư, Truyền đạo và con cái Chúa.
4.      Bóng Mát Sa Mạc.
Sách nầy gồm có 365 bài suy gẫm (Kinh thánh hằng ngày của Cụ) được soạn để dùng trọn năm. Mỗi ngày một câu Kinh thánh, một bài giảng luận ngắn theo ý nghĩa của câu Kinh thánh ấy.
5.      Châu Ngọc của Kinh thánh.
Mỗi ngày một câu Kinh thánh đủ trọn năm theo hai ý: Tiêu cực và tích cực do những chữ Đừng, Phải, Chớ, Hãy. Sách được trình bày như một quyển lịch để mỗi ngày có thể ôn lại lời khuyên dạy của Chúa. Châu Ngọc Thi Thiên là những bài suy gẫm về Thi thiên của cá nhân Cụ.
6.      Những Bước Thuộc Linh.
Sách có hai mươi chương luận giải về đường thuộc linh từ bước khởi hành tìm kiếm chân lý cứu rỗi đến bước sâu nhiệm là khi tâm linh giao thông cùng Chúa và nếp sống hòa hiệp với Ngài.
Chúng ta thử trích đọc vài chương trong quyển “Người Truyền Đạo của Đức Chúa Trời” để thấy sự quan tâm của Những Người Đi Trước đối với chức vụ của người Hầu Việc Chúa:
“Để riêng ra đặng giảng Tin Lành Đức Chúa Trời” (Rôma 1:1). Một người bước vào chức vụ Truyền đạo cách nào? Đó chính là điểm then chốt. Có một cửa vào chuồng chiên nầy, và cũng có thể “vào từ nơi khác” (xem Giăng 10:1). Một người có thể bước vào chức vụ Truyền đạo vì đã toan tính riêng. Người có thể lãnh chức vụ như một chức nghiệp, một sinh kế. Người có thể lãnh chức vụ vì nó hiến cho mình một địa vị xã hội khả quan, một vai trò lãnh đạo. Một người có thể làm Truyền đạo vì đã thích chức vụ ấy sau khi cẩn thận xem xét những loại công việc khác. Người cân nhắc chức vụ Truyền đạo cùng với những loại công viêc khác, rồi chọn chức vụ nầy vì nó hợp với sở thích của mình. Trong mỗi trường hợp kể trên, ứng viên chức vụ Truyền đạo đã không do cái cửa chánh đáng mà vào. Cớ tích ràng buộc người chính là dục vọng, và mục đích mà người ước mong đạt tới chỉ là một mục đích trần tục. Người không “ngước mắt lên trên các gò nỗng” (Thi. 121:1 – theo nguyên văn). Người đã quyết định tự mình kêu gọi mình, chớ “chẳng có Đức Chúa Trời trong hết thảy tư tưởng của người” (Thi. 10:4).
Bây giờ, với lòng tin chắc sâu xa tôi xin quả quyết rằng trước khi người nào bước vào chức vụ Truyền đạo, thì người ấy phải được Đức Chúa Trời hằng sống đời đời kêu gọi làm chức vụ đó. Tiếng kêu gọi của Đức Chúa Trời phải vang dậy trong linh hồn người. Ứng viên chức vụ Truyền đạo phải cảm thấy rằng “có lẽ cần buộc mình” (I Côr. 9:16); rằng mình không thể chọn đường nào khác ngoài chức vụ Truyền đạo, vì đã nhận được tiếng kêu gọi như một mạng lịnh từ nơi Đức Chúa Trời hằng sống đời đời” [2]
Trong chương thứ hai với Đề tài: “Hiểm Họa của Người Truyền đạo”, Cụ Mục sư viết: “E rằng… chính mình phải bị bỏ chăng” (I Côr. 9:27). Mở đầu bài giải luận các hiểm họa của người Truyền đạo, tôi xin trưng dẫn chính lời kinh khủng của Sứ đồ Phaolô: ‘Vậy thì, tôi chạy, chẳng phải là chạy bá vơ; tôi đánh, chẳng phải là đánh gió; song tôi đãi thân thể tôi cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi đã giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải bị bỏ chăng” (I Côr. 9:27). Sau đó, Cụ mục sư nêu ra những hiểm họa của Người Truyền đạo:
1.      Hiểm họa thứ nhất mà tôi nêu lên là đang khi chúng ta luôn luôn mảng lo những chân lý và thực sự thiêng liêng, thì lại có thể hóa ra vô cảm giác đối với những chân lý và thực sự ấy….
2.      Hiểm họa thứ hai trong đời người Truyền đạo là người có thể trở thành vô cảm giác đối với sự đau đớn, khổ sở của mọi kẻ chung quanh mình… Người luôn đi lại giữa những kẻ đau đớn, bị cám dỗ, sa ngã, và tang chế đều đòi hỏi chức vụ của người. Người hằng ngày thông cảm với kẻ khác trong những bi kịch xảy đến cho họ. Đối với kẻ khác, sự đau đớn chỉ là khách, thỉnh thoảng đến thăm và làm cho hoảng sợ; song đối với người, thì là khách đến hằng ngày… Nhưng có hiểm họa ở đây: quen với đau khổ, thì có thể khiến chúng ta lạnh lùng đối với kẻ đau khổ. Cảnh đau đớn có thể không làm cho ta tan chảy nữa, cảnh bi thảm có thể không làm cho ta xúc động nữa; chúng ta có thể không khóc được nữa… Trạng thái tê liệt phát sanh từ sự quen biết cảnh đau đớn có thể khiến chúng ta xa lạ với nhu cầu của nhân gian. Nói theo Sứ đồ Phaolô, thì chúng ta có thể “mất cả sự cảm biết” (Êph. 4:19)
3.      Tinh thần ham mến thế gian lại là một hiểm họa khác mà người Truyền đạo gặp phải. Đó là hiểm họa mà mỗi tín đồ Đấng Christ gặp phải, nhưng không ai gặp nhiều bằng người Truyền đạo Tin Lành… Nó tự xưng bằng những danh hiệu êm tai, tỉ như: “tùy thời”, “khéo léo”, “ngoại giao”, … Nó thích hoàng hôn, tức là cảnh pha trộn nửa đêm với giữa trưa, và liên hệ đồng đều với cả hai. Vậy, người ham mến thế gian ở đâu cũng dễ chịu. Người có thể kết tình huynh đệ với mọi hạng người. Người gật đầu làm quen với vị thánh đồ và cùng kết bạn thân với tội nhân. Người có thể đứng lẫn với kẻ thờ lạy trong đền thờ, hoặc với kẻ đổi bạc ở hành lang Đền thờ… Anh em sẽ mỉm cười với tiêu chuẩn kinh doanh hèn thấp, và cười rộ với câu pha trò không trong sạch. Anh em sẽ dễ dàng dung thứ những cuộc vui chơi theo thế gian. Anh em sẽ cố gắng “trở nên mọi cách cho mọi người” (I Côr. 9:22) để làm đẹp lòng họ, sẽ thử hầu việc Đức Chúa Trời và Ma-môn. Anh em sẽ bị gọi là bạc bị bỏ (Giê. 6:30)…
Các sách của Cụ Mục sư viết đều có sự tham khảo các sách khác, bất kể Đông hay Tây, như trong quyển ‘Những Tia Sáng II’. Tôi trích truyện đầu tiên của sách:
Theo Chúa (Ta thường ở với các ngươi).
Trận chiến tranh giữa Pháp và hai nước liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17-11-1796 như sau:
Đại tướng Pháp Bonaparte đưa quân đến một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy, Đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua! Đại tướng xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô “Ai yêu tổ quốc thì theo ta”. Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch. Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo Đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, Đại tướng Bonaparte toàn thắng và cũng chấm dứt cuộc chiến tranh ấy.
Tám năm sau Bonaparte đã là Hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ nghênh tiếp rất linh đình. Hoàng đế Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi trong quân đoàn tại đó.
Hỏi đến Vidal thì cậu đã nghỉ phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon bãi bỏ tất cả lễ nghi quân cách. Đi thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi bộ với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp: “TÁM NĂM TRƯỚC CON ĐÃ LIỀU CHẾT THEO TA TRÊN CON ĐƯỜNG CHẾT, NAY TRÊN ĐƯỜNG ĐAU KHỔ CON CHO TA THEO CON CHO CÓ BẠN!”
Ai đã liều chết mà theo Chúa sẽ nghe tiếng Chúa “Ta ở cùng các ngươi cho đến tận thế”.
Và đây là một trong những truyện cuối trong quyển ‘Những Tia Sáng II’
ĐỪNG KIẾM CÁCH DÌM NGƯỜI TÀI BA (Nói thí dụ)
Có người bảo vua nước Lương rằng: Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử chắc không nói gì được nữa.
Vua bảo: Ừ! để rồi ta xem
Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng:
-          Xin tiên sinh nói gì cứ nói thẳng, đừng thí dụ nữa.
Huệ-Tử nói: Nay có một người ở đây không biết cái nỏ là cái gì, mới hỏi hình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng hình trạng cái nỏ giống cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?
Vua nói: Hiểu làm sao được.
-          Thế thì nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?
Vua nói: Biết được.
Huệ-Tử nói: Ôi! Khi nói với ai, là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được[3].
Có truyện thì bên trời Tây, có truyện thì ở trời Đông.
Qua các sách của Cụ Mục sư, tôi nhận ra một điều là Cụ đã có thì giờ Tự Học Kinh thánh từ đó trở thành những quyển sách có cần và là gương cho những người đi sau.
Và ‘Hồi Ký 46 Năm Chức Vụ’ Cụ Mục sư đã ghi lại với bao nhiêu kinh nghiệm sống động thực tế mà người hầu việc Chúa nào cũng cần tham khảo.
Qua ‘Hồi Ký’ của Cụ, chúng ta được biết Đức Chúa Trời đã kêu gọi Cụ từ lúc còn là thanh niên trong một gia đình vọng tộc nho gia, trong thời kỳ Chúa khai sáng Hội thánh của Ngài trên Đất Việt của chúng ta. Rồi chúng ta được theo từng bước chân của Cụ hầu việc Chúa tại từ miền Nam, Trung, Bắc; với những vị trí chức vụ chủ tọa Hội thánh, Chủ nhiệm Địa Hạt, rồi chức vụ Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam toàn quốc trong thời kỳ xao động nhất của lịch sử Đất Nước. Với chức vụ lãnh đạo Hội thánh đối phó với tà giáo định ngày Chúa tái lâm của ông Trần Như Tuân.
Từ giã chức vụ Hội Trưởng, Cụ lại đứng ra lo thành lập Cô Nhi Viện Tin Lành tại Nha Trang, một công việc mới mẻ đối với Hội thánh chung, cũng nhờ Cô Nhi Viện gần ở địa điểm bên cạnh Thánh Kinh Thần Học Viện, Cụ lại dự phần dạy môn Người Truyền Đạo của Đức Chúa Trời cho Viện. Cá nhân tôi thật cảm động khi tự xét lại Sự Kêu Gọi mà Chúa đã đặt trên tôi. Đang khi dạy, thỉnh thoảng Cụ cũng có những lời khuyên ngoài môn học nhưng rất cần cho chức vụ, như Cụ Mục sư Lê văn Thái nêu ra bốn loại bài giảng:
(1)   Loại bài giảng Đầy Đủ, là loại bài giảng đúng Phương pháp, có tham khảo đầy đủ tài liệu.
(2)   Loại bài giảng Hay, là người giảng có khẩu tài khiến người nghe thích thú.
(3)   Loại bài giảng Cảm Động, là loại bài giảng có thể làm cho người nghe khóc được, đôi khi là đóng kịch.
(4)   Loại bài giảng có Thần Quyền, là loại bài giảng Chúa muốn, khiến người nghe sẵn sàng làm theo mạng lịnh của Chúa.
Cụ Mục sư cũng khuyên người giảng phải học tánh khôi hài trong bài giảng, và Cụ nói: Khôi hài là một nghệ thuật. Mà Cụ thật vui tánh khi dạy, thường cười với học viên, nhất là Cụ thích kể truyện đầy sinh động. Truyện mà tôi nhớ là “Những Người Khốn Khổ” của Văn Hào Victor Hugo, vừa kể Cụ vừa phân tích tình huống, nhân vật…, rất hấp dẫn.
Cụ cũng nói với chúng tôi có người những lúc đầu lên giảng thì run nhưng giảng một trăm lần thì sẽ không còn biết run, khi đó Đức Chúa Trời cũng không cần người ấy giảng. Cụ cũng có những câu nói đầy triết lý, như:
Cụ nói, một lần đến dự Lễ Cung Hiến một nhà thờ, vì trước giờ Lễ, trời đổ mưa, nên khi bắt đầu Lễ, đoàn người bước vào nhà thờ đã mang sình lầy vào nhà thờ, khiến Cụ phải thốt lên: Những Người Thánh làm dơ Nhà Thánh! – Đáng sợ thay!
Năm 1960, Cụ cương quyết từ chối tái ứng cử chức vụ Hội Trưởng Tin Lành Việt Nam, dù đa số nài ép Cụ tiếp tục để tên ứng cử, Cụ đã bước ra khỏi Hội Đồng với lời khẳng khái: Đã đến lúc Thế hệ đồng vắng nhường chỗ cho Thế hệ Đất Hứa. Mấy ai bước lên rồi chịu bước xuống? Người xưa dạy: ‘Quyền thế lớn không nên giữ mãi’. Chí lý thay mà cũng khó thay!
Cụ Mục sư được Chúa dùng vào những thời điểm lịch sử của Đất Nước biến đổi quan trọng, Chúa đã cho Cụ Mục sư vững vàng trong đức tin đối phó với những tình huống đặc biệt mà tổ phụ cũng như người đời sau chưa từng đi qua, cũng không thể tìm được kinh nghiệm từ những người hầu việc Chúa trên đất nước nào khác.
Năm 1929, giải cứu Mục sư Phan Đình Liệu khỏi nhà tù tại Khánh hòa. Năm 1929, Mục sư Phan Đình Liệu bị bắt giam vì tội giảng Tin Lành với bản án năm tháng khổ sai tại Khánh hòa, do lịnh bắt bớ Đạo của Viện trưởng Cơ Mật Viện Nguyễn Hữu Bài ở Huế. Theo lời tường thuật của Mục sư Phan Đình Liệu: “Hai tháng đầu bị giam tại nhà lao tỉnh, tôi (Cụ Mục sư Liệu) cầu nguyện suốt đêm, hát thánh ca lớn tiếng vang dội vô dinh các quan, có lẽ vì mất giấc ngủ nên quan án ra lệnh giải Phan Đình Liệu xuống Nha Trang cho gần Hội thánh Tin Lành! Kỳ thật, họ muốn tống tôi xuống nhà lao chính cho đội đề lao người Thượng có tiếng hung dữ, để trị tội tôi cho bỏ ghét. Song đường lối của Chúa là khác, Ngài đã dùng tôi ở đó để cứu mười hai phạm nhân, mỗi tuần chúng tôi nhóm, giảng và cầu nguyện. Ở trong nhà lao nầy thật như một Hội thánh nhỏ ở đây vui quá, bà đội đề lao và thầy đội dầu chưa có đức tin nhưng có vẻ kính sợ Chúa và yêu mến tôi lắm. Khi tôi mãn tù ra, ông bà bảo tôi rằng: Phải chi được phép, tôi nguyện lưu ông Ha-lê-lu-gia (họ đặt tên tôi) ở lại đây ít tháng nữa cho đỡ buồn! Thật mâu thuẫn đến tức cười. Tôi được ra, còn họ muốn lưu lại… Toàn cõi Việt Nam trước đây chưa có phép giảng Tin Lành tự do. Nhân dịp tôi (Mục sư Phan Đình Liệu) bị tống giam tại nhà lao Khánh hòa lần thứ hai, ông Mục sư Lê vănThái tay bưng chiếc đèn nấu nước (rề-sô) tặng tôi tại cửa nhà lao, cụ Cadman chụp một tấm ảnh nầy đăng lên các báo ở Pháp, Anh, Mỹ, Gia-nã-đại.
Tại Pháp, họ đem việc nầy đạt đến Thượng nghị viện Pháp nênThượng nghị viện biểu quyết xin chính phủ Pháp cho Hội thánh Tin Lành được tự do giảng đạo ở toàn cõi Đông dương, từ nay không còn ai được phép bắt bớ như trước nữa… (tường thuật của Mục sư Trí sự Phan Đình Liệu, ngày 22 tháng 10 năm 1969)[4]
Còn đây là lời thuật của Cụ Mục sư Lê văn Thái: “Ngày 15-10-1928, chúng tôi từ Hà-nội vào Sàigòn bằng xe hơi theo quốc lộ 1. Tiện đường chúng tôi ghé lại lao xá thăm cụ Mục sư Phan Đình Liệu và trao tặng cái rê-sô cho cụ, thì bà W.C. Cadman đứng bên kia đường chụp ngay được một tấm ảnh. Tấm ảnh đó làm bằng chứng cho việc Tin Lành bị bắt bớ và Mục sư bị cầm tù tại Việt Nam. Về đến Sàigòn, bà Cadman liền viết một bài tường thuật với đầy đủ chi tiết gởi cho một nghị sĩ Quốc hội Pháp kèm theo tấm ảnh bà đã chụp được. Ít lâu sau hồ sơ về vụ bắt bớ nầy được đưa ra thảo luận sôi nổi tại Quốc hội Pháp. Nhiều câu hỏi được nêu lên để chất vấn chính phủ, đại khái như: Tại sao Tin Lành bị bắt bớ tại Việt Nam? Tại sao Mục sư bị giam cầm?
Sau cuộc tranh luận ấy tại Quốc hội Pháp, ngày 5-12-1929, chính phủ Pháp và Nam triều ban hành một sắc lệnh mới. Sắc lệnh nầy nhằm thu hồi sắc lệnh của Toàn quyền Đông dương đã ký vào tháng chạp, 1915. Như vậy, trên lý thuyết, Tin Lành không còn bị ngăn cấm nữa…[5]
Hội kiến tại Bắc Bộ Phủ
Sau hai vụ nổ bom nguyên tử tại Okinawa và Nagasaki, ngày 15-8-1945, nước Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chế độ quân phiệt suy tàn cùng với giấc mộng thôn tính toàn cõi Đại Đông Á của con cháu Thái dương Thần nữ. Nhân cơ hội nầy, ngày 23-8-1945, Mặt Trận Việt Minh đứng lên cướp chính quyền trong tay người Nhật. Đến 2-9-1945 tại công viên Ba Đình, ông Hồ Chí Minh với tư cách Chủ Tịch, đã tuyên bố nước Việt Nam Độc Lập. Thế là lịch sử quốc gia lại bắt đầu một giai đoạn mới với những thể chế khác biệt hơn. Trong những ngày đầu, toàn dân hân hoan đều chào mừng chiến thắng. Cuộc tranh đấu trường kỳ giành độc lập kể như đã thành công. Lúc bấy giờ cũng như những đoàn thể tôn giáo khác, vào ngày 8-9-1945, tôi cùng ông Mục sư Trần văn Đệ và ông Bùi Hoành Thử đại diện cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam đến chào mừng cụ Hồ tại Bắc Bộ Phủ. Trong buổi tiếp xúc đầu tiên với vị Chủ Tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vấn đề sau đây đã được đem ra thảo luận: “HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM CÓ NÊN LẬP TIN LÀNH CỨU QUỐC HAY KHÔNG VÀ CÁC NHÀ THỜ TIN LÀNH CÓ PHẢI TREO CỜ HAY KHÔNG?” Ngay từ phút đầu, Cụ Hồ Chí Minh đã nhìn thẳng vào tôi và nói: “Ông nên lập Tin Lành Cứu quốc trong Hội thánh”. Tôi nhận thấy đề nghị đó không thể chấp nhận được vì không hiệp với tôn chỉ của Hội thánh, nên đã trình bày đại để như sau: “Toàn thể tín đồ đều hòa mình với dân, họ thuộc đoàn thể nào xin cứ để họ giữ nguyên đoàn thể ấy. Chẳng hạn như thanh niên, lao công, thợ thuyền, công chức, giáo giới, mỗi tổ chức đều có đoàn thể cứu quốc riêng. Nếu chúng tôi lập Tin Lành Cứu quốc, thì phải rút những người tín đồ trong các giới kia ra, như vậy e có phần xáo trộn và phân tán chăng? Vả lại tôn chỉ của Hội thánh Tin Lành Việt Nam là Tin Lành phải thuần túy không có màu sắc chính trị, không dung nạp chính trị và không chịu ai tuyên truyền chính trị”. Cụ hồ hỏi tại sao? Tôi liền thưa: “Vì lịch sử đã chứng minh, nếu tôn giáo đi đôi với chính trị, thì khi tôn giáo mạnh sẽ chi phối chính trị và ngược lại, chính trị mạnh, sẽ chi phối tôn giáo. Trong hai cái đó, luôn luôn có cái nầy hoặc cái kia chi phối nhau. Thí dụ như nước với lửa, nhân loại đều cần cả hai, nhưng phải tách riêng ra chứ không để chung nhau được, vì nước đổ trên lửa thì lửa tắt, mà lấy lửa nấu nước thì nước khô”.
Cụ Hồ chăm chỉ nghe tôi trình bày và sau cuộc hội kiến nầy, ông đồng ý cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam được giữ nguyên tình trạng cũ. Chúng tôi thật vui mừng tạ ơn Chúa!
Nhân cơ hội nầy, tôi cũng trình Cụ Chủ Tịch bức điện tín của Hội Trưởng Giáo sĩ E. F. Irwin mời tôi vào Mỹ tho gấp (vì ông đã được trả tự do và sắp về Mỹ) để xin cụ cấp cho một giấy thông hành từ Bắc vào Nam. Cụ vui vẻ nhận lời và mấy hôm sau tôi nhận được một giấy phép của Bộ Nội vụ, nội dung như sau: “Mục sư Lê văn Thái, Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam được phép đi từ Bắc vào Nam lo công việc của Đạo Tin Lành”. Nhờ tấm giấy thông hành nầy và bởi ơn Chúa tôi đã vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn nguy hiểm rồi trở về bình an”.[6]
Biến cố Tết Mậu Thân 1968
 Biến cố Tết Mậu Thân 1968 xảy ra trên hầu hết miền Nam, riêng tôi lúc ấy đang dự học ở Thánh Kinh Thần Học Viện tại Nha Trang nên chứng kiến tình hình hết sức đặc biệt nguy cấp. Về mặt chiến tranh, thì Thần Học Viện do ở ngoài thành phố khá xa nên không bị ảnh hưởng về súng đạn, nhưng trong những ngày chiến sự ác liệt, cả tỉnh đều ở trong tình trạng giới nghiêm do lịnh của Thiếu Tướng Tổng trấn Nha Trang Đoàn văn Quảng. Vì giới nghiêm nên tất cả mọi việc đi lại, giao thương mua bán đều không thể diễn ra, do đó, vấn đề nguy cấp là Thánh Kinh Thần Học Viện với gần 200 sinh viên và Cô Nhi Viện với chừng ấy cô nhi, không có thực phẩm, nhất là gạo ăn.
Cảm ơn Chúa cho Cụ Mục sư Ông văn Huyên là Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện và Cụ Mục sư Lê văn Thái là Giám đốc Cô Nhi Viện Tin Lành Nha Trang đã cùng dấn thân liên lạc với Thiếu Tướng Tổng Trấn, và Chúa cho hai Viện được cấp gạo đủ dùng, riêng hai Cụ Mục sư được cấp phép đi lại trong giờ giới nghiêm để lo cho hai Viện.
Nhơn nói đến sự đồng công của Hai Cụ Mục sư Ông văn Huyên và Lê văn Thái, tôi cũng xin trích lại lời của Cụ Mục sư Lê văn Thái thuật lại lần Hai Cụ viếng thăm và làm chứng về Chúa cho những nhân vật ngoại hạng của Việt Nam.
(1)   Làm chứng cho những người thuộc Hoàng tộc Nguyễn Phước
Năm 1933, ông bà Mục sư Ông văn Huyên được Hội thánh cử đến thay cụ Hoàng Trọng Thừa làm Mục sư chủ tọa tại Huế. Tôi (Mục sư Lê văn Thái) từ Hà-nội vào và lưu lại một tuần lễ để hiệp tác giảng Tin Lành cho đồng bào. Nhân dịp nầy, chúng tôi tìm cách đến thăm một số nhân vật trong hoàng tộc, một số thương gia, quan lại và một vài nhà chí sĩ tại cố đô Huế để làm chứng về Chúa và mở rộng phạm vi rao truyền Tin Lành.
Nhân vật hoàng tộc đầu tiên mà chúng tôi có dịp tiếp xúc là ông Ưng Khoa giữ chức vụ Trợ Quốc Khanh trong hoàng triều. Sau đó chúng tôi cùng ông nầy đến thăm cụ Quận công Hường Oai ở phủ Hòa Thạnh Quận vương, cuối đường Gia hội. Cụ là cháu nội của vua Minh Mạng. Khi chúng tôi đến biếu sách và nói về Chúa cho cụ nghe thì cụ rất lấy làm lạ. Cầm quyển sách trong tay, cụ vui vẻ nói: “Tôi chưa hề được nghe một Tin Lành cứu chuộc đơn giản như thế”. Mặc dù trong gia đình đã có mấy người cháu gọi cụ bằng chú đã tin nhận Chúa rồi, nhưng chưa có ai dám nói về Tin Lành cho cụ nghe cả.
(2)    Làm chứng cho những chí sĩ cách mạng.
Đây là lời của Cụ Mục sư thuật lại cơ hội Hai Cụ Mục sư làm chứng về Chúa cho những những chí sĩ cách mạng:
… Buổi sáng hôm sau, cụ Huyên và tôi sắp đặt chương trình để làm chứng đạo về Chúa cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, là một chí sĩ hiện đang điều khiển tờ báo Tiếng Dân tại phố Hàng Bè, Huế. Trong dịp nầy cụ Giáo sĩ Stebbins cùng đi với chúng tôi. Chúng tôi gặp cụ Kháng tại văn phòng tòa soạn. Cụ rất vui tiếp chúng tôi, nhưng khi biết qua mục đích cuộc thăm viếng nầy là chỉ để làm chứng về Tin Lành cứu rỗi, thì thái độ của cụ bỗng đổi khác. Từ cách nói chuyện đến cách cụ nhìn khói thuốc bay tỏa trong căn phòng không mấy rộng, khiến chúng tôi có cảm nghĩ rằng cụ cho chúng tôi ngây thơ quá chỉ làm phí thì giờ của cụ. Nhận thấy không thế nói gì thêm trong lúc nầy, chúng tôi tặng cụ vài quyển sách rồi từ giã. Ra đường, tôi và cụ Huyên đã nói với nhau: “Ông già thật kiêu hãnh!” Nhưng vẻ kiêu hãnh đó không còn nữa trong những lần gặp gỡ sau, nhất là vào khoảng năm 1946-1947, tôi thường có dịp tiếp xúc với cụ Huỳnh Thúc Kháng khi cụ làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ tại Bắc Bộ Phủ. Trong những lần như vậy, tôi thường nói chuyện với cụ về Tin Lành và ơn cứu chuộc của Chúa Jêsus. Tôi cũng đã biếu cụ một bộ Kinh thánh Tân Cựu Ước, rồi ít lâu sau gặp lại, tôi hỏi cụ có xem không, thì cụ cho hay là đang xem và rất vui khi xem Kinh thánh. Hồi ấy thái độ kiêu hãnh của ông già trong tòa soạn báo Tiếng Dân khi xưa không thấy nữa, hiện diện trước mặt tôi là một nhà chí sĩ, một cách mạng gia lão thành khiêm nhường khả kính. Tôi cầu nguyện thật nhiều để lời Chúa trở nên ánh sáng cho đường lối của cụ.
Chiều hôm đó, cụ Huyên và tôi đến thăm cụ Phan Bội Châu để tặng Kinh thánh và làm chứng Tin Lành. Đồng bào ở Huế thường gọi cụ là Ông Già Bến Ngự, vì sau khi bị bắt và bị kết án, người Pháp đã quản thúc cụ Phan trong một chiếc thuyền lớn trang bị đầy đủ tiện nghi và thuyền nầy thường đậu tại Bến Ngự. Nhưng sau đó ít lâu họ không để cụ ở dưới thuyền nữa mà dời lên một căn nhà trên đường đi Nam giao gọi đường Ba-dốc (Huế). Nhà nầy cũng do người Pháp xây cất để cụ ở, lương thực cũng do họ cung cấp và dĩ nhiên mọi hoạt động của cụ đều có người theo dõi cẩn thận. Vì tính cách biệt cư đó, cho nên đồng bào không mấy ai dám giao thiệp với cụ. Tôi và cụ Huyên vì vô tình nên không hay cớ sự như vậy. Vả lại mục đích của chúng tôi là đem Tin Lành đến cho cụ Phan mà thôi. Mọi chi tiết khác đều không đáng kể.
Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi đến căn nhà nói trên, được cụ Phan ra tiếp. Nhìn quanh nhà không thấy ai khác ngoài cụ. Nhưng khi ngồi xuống ghế thì một người đàn ông lực lưỡng mang súng từ ngoài bước vào. Cụ Phan giới thiệu: “Đây là người bạn ngày đêm ở gần tôi theo lệnh của người Pháp, vì họ kể tôi như là một thứ vi trùng hay lây nên sợ ai đến gần sẽ bị lây”. Trong khi ấy thì anh chàng nầy thản nhiên tay cởi súng đặt lên bàn, miẹng nói: “Tôi ở đây giúp cụ và hầu chuyện cho cụ vui”. Chúng tôi tự giới thiệu là Mục sư Tin Lành xin đến thăm cụ và tặng cụ quyển Kinh thánh là Lời Sự sáng và cũng có Lời của Sự sống. Cụ Phan đứng lên hai tay đưa ra nhận quyển Kinh thánh và nói: “Trong đời lưu vong của tôi, tôi chỉ có một người có thể gọi là bạn, đó là một vị Mục sư Trung hoa khi tôi ở bên Quảng Tây, vị Mục sư ấy cũng có đọc Thánh Kinh cho tôi nghe”.
Chúng tôi giải bày Lời Chúa là Lời Sự Sống và cũng là Lời Sự Sáng cho cụ. Thái độ của cụ rất khiêm tốn và những câu hỏi của cụ tỏ ra cụ đang muốn tìm con đường giải thoát. Sau khi đã trình bày cặn kẽ về sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá và quyền năng phục sinh của Ngài cho cụ, chúng tôi từ giã cụ ra về.
Cụ tiễn chúng tôi ra ngoài sân, thấy tôi chăm chú nhìn ngôi mộ mới ở góc vườn. Dường như cụ đã đoán được tôi đang để ý ngôi mộ mới ấy. Cụ chỉ tay vào ngôi mộ rồi nói: Đây là cái mộ của con chó Vá của tôi chết vài tuần nay. Tôi có bài thơ định viết trên bia để nhớ nó, nhưng chưa có bia, tôi đọc để hai cụ nghe, rồi cụ đọc:
“Vì có dũng nên liều chết phấn đấu.
Vì có nghĩa nên trung thành với chủ.
Nói thời dễ, làm thực khó.
Người còn vậy, huống gì chó!
Há như ai kia, mặt người lòng thú
Nghĩ thế mà đau.
Dựng bia mộ nó.
(PHAN BỘI CHÂU)
Tôi ghi lại đây để nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi với cụ Phan.
Rồi cụ tiếp: Con chó Vá của tôi rất trung tín mặc dù chủ nghèo! Tôi chưa có dịp mô tả tính nết của nó trên bia. Đang khi nói cụ nhìn người công an với cái nhìn đầy ý nghĩa. Chúng tôi nghĩ thật mỉa mai, một nhà chí sĩ cách mạng như cụ Phan Bội Châu, suốt đời vào tù ra khám, đến lúc tuổi già lại vẫn phải sống biệt cư. Người ta đày ải cụ chỉ vì lòng cụ thiết tha yêu nước. Cái bia của con chó vá cũng là ý nghĩa của sự tận trung. Cụ Phan đã đặt quê hương lên trên mạng sống. Chúng tôi rất kính phục cụ và hằng ngày cầu nguyện xin Chúa giúp cụ tìm được ánh sáng của sự cứu rỗi qua lời Kinh thánh.[7]
Biến cố 1954 với Thánh ca 503.
Trong khi dạy chúng tôi tại Thánh Kinh Thần Học Viện, Cụ Mục sư Lê văn Thái đã một lần bùi ngùi thuật lại biến cố lịch sử của Hội thánh trong biến cố lịch sử của Đất Nước 1954. Nhưng trước hết, chúng ta hãy đọc những dòng tâm tư của Cụ Mục sư viết về thời điểm lịch sử đó:
“…ngày 20-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết giữa Pháp và Việt Minh khiến mọi người bàng hoàng ngơ ngác. Thiết tưởng không có gì làm cho người dân Việt lúc bấy giờ đau lòng hơn là phải chứng kiến thảm trạng đất nước bị chia đôi.
Lịch sử quốc gia cũng như lịch sử Giáo hội đã đi vào một ngõ rẽ quan trọng. Trong cuộc di cư vĩ đại năm 1954 gần một triệu người đã quyết định lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún tại Miền Bắc để vào Nam. Hội thánh của Đức Chúa Trời cũng bị xáo trộn rất nhiều vì những biến chuyển của thời cuộc. Cảm thông được điều ấy nên trước ngày di cư, Tổng Liên Hội đã phổ biến một thông cáo khẩn cấp đại khái ai di cư hay ở lại miền Bắc thì báo cho Tổng Liên Hội biết. Kết quả sau thông cáo ấy có 17 gia đình Mục sư, Truyền đạo tình nguyện ở lại miền Bắc. Chúa đã dùng các đầy tớ của Ngài ở lại đó để duy trì công việc, nhờ đó Tin Lành vẫn được rao truyền ở miền Bắc ngay trong lúc tình hình đất nước căng thẳng nhứt”.[8]
Cụ Mục sư Lê văn Thái nói với chúng tôi trong giờ phút chuyến tàu xuôi Nam tại Hải Phòng rời bến, các Mục sư Truyền Đạo cùng tín hữu trên tàu cũng như trên bờ đã hát vang bài Thánh ca chia tay đầy nước mắt (Thánh ca Tin Lành Việt Nam số 503):
Anh em ta chia tay mong sẽ gặp nhau.
Yêu thương không phai, tâm linh giao cảm.
Xin Cha chăn nuôi anh em ta cả!
Nguyện nguồn phước thiêng đượm nhuần linh hồn hoài!
Nơi chân Chúa - sẽ thấy nhau!
Thấy nhau luôn cho thỏa lòng nầy.
Nơi chân Chúa - sẽ thấy nhau,
Dẫu ta chia tay tạm biệt nhưng lại gặp.
Lúc Cụ hát những lời nầy thì Cụ đã già rồi, giọng khàn khàn như ngâm hơn là hát, nhưng sao cảm động lòng tôi biết bao, cứ tưởng mình đang cùng đứng vẫy vẫy tay khi tàu từ từ xa bến. Những lời của Thánh ca mà Cụ Mục sư hát là những lời từ thơ thánh cũ xa xưa, mộc mạc, không gọt giũa, nhưng đầy cảm xúc chân thành.
CUỘC PHẤN HƯNG
Để hiểu rõ nhu cần cuộc phấn hưng nầy, tôi trích lời tường thuật của Mục sư Lê Hoàng Phu về tình hình của Hội thánh lúc bấy giờ. Mục sư Lê Hoàng Phu ghi lại:
“Với sự tấn công Trân Châu Cảng tháng 12-1941, các giáo sĩ đã không còn nhận được ngân khoản từ trụ sở Hội Truyền giáo ở Mỹ quốc. Những phần mười và tiền dâng từ các thuộc viên Hội thánh, hầu hết với lợi tức cố định, không đủ để trang trải nhu cần càng ngày càng gia tăng của các Hội thánh, vô luận là hội tự lập hay còn đang nhận trợ cấp… Ba vị chủ nhiệm cũng được thông báo ít lâu sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ rằng bắt đầu từ ngày 1.2.1942 sẽ không có tiền trợ cấp từ Hội Truyền giáo.
Bắc Việt Nam không phải giàu có gì, nền kinh tế chịu ảnh hưởng nghiêm trọng chẳng phải chỉ bởi đạo quân chiếm đóng mà cũng bởi làn sóng người Trung hoa di cư từ miền Nam Trung quốc. Tình trạng suy thoái kinh tế nầy gây nên một ảnh hưởng trái nghịch trên Hội thánh Tin Lành trong địa hạt. Năm 1942, Địa hạt nầycó 99 thuộc viên chịu lễ báp-têm và 21 mục sư truyền đạo hầu việc Chúa tại 27 Hội thánh và 30 hội nhánh, mà chỉ có 4 Hội thánh tự lập. Điều kiện kinh tế mới buộc Ban Trị sự đóng cửa 11 hội nhánh và còn hăm dọa đóng cửa trên 80% các nơi nhóm họp…
Hội Đồng Tổng Liên Hội triệu tập tại Đà nẵng từ 15 đến 19-8-1942, không có Hội trưởng chủ tọa vì Mục sư Lê Đình Tươi bị chứng bán thân bất toại. Phó Hội trưởng là Mục sư Lê văn Quế qua đời mấy tháng trước đó. Mục sư Ông văn Huyên, Tổng Thư ký tạm quyền chủ tọa Hội Đồng. Ngày 19-8-1942, Mục sư Lê văn Thái, chủ nhiệm Bắc hạt từ năm 1932, được cử làm Hội trưởng thay thế Mục sư Lê Đình Tươi đang đau nặng… Trên vai vị mục sư thức thời nầy, một trách nhiệm trọng đại là lãnh đạo Hội thánh trong thời kỳ nghiêm trọng nhất của lịch sử Hội thánh.
“… Các giáo sĩ đã nhận được một công điện từ Ủy Ban Truyền giáo tại Nữu Ước vào ngày 2.8.1941. Những huấn thị thật rõ rệt, những người nào gần đến kỳ nghỉ phép thì phải về ngay lập tức, các giáo sĩ trẻ phải qua Phi-luật-tân, còn bao nhiêu thì chỉ đàn ông ở lại, đàn bà và trẻ em còn ở lại thì ráng chịu lấy rủi ro. Trong số 74 giáo sĩ hầu việc Chúa tại Việt Nam, Campuchia, Lào và Đông Thái lan, có 68 người quyết định ở lại tại nhiệm sở với 31 trẻ em. Tháng 7.1943, có 13 giáo sĩ của nhóm nầy được hồi hương với 12 trẻ em trong cuộc trao đổi thường dân Nhật - Mỹ đầu tiên. Họ được đại diện bởi Tòa Lãnh sự Thụy sĩ, và có thể từng hồi, từng lúc, nhận được ngân khoản từ trụ sở Hội Truyền giáo… Tháng 4.1943, nhà chức trách Nhật ra lịnh cho chính phủ Pháp tập trung tất cả các giáo sĩ ở Mỹ tho, Nam Việt Nam, chỉ có giáo sĩ Jean Funé được ở lại tại giáo sở của họ ở Sơn La, Bắc Việt, vì ông có quốc tịch Pháp, nhưng cũng chẳng lâu trước khi người Pháp tố cáo ông Funé có tinh thần chống Pétain và cũng bị bắt giam…
“Vài giáo sĩ nắm lấy cơ hội bắt buộc nầy mà biên soạn mấy cuốn sách. Mục sư Wm. Cadman, sưu tập cuốn Thánh Kinh Từ Điển; Mục sư J.D. Olsen đã nhuận chánh sách Thần đạo có hệ thống, và các sách khác chứng tỏ rất giá trị đối với các mục sư truyền đạo Việt Nam.
Với sự đột kích của người Nhật lật đổ chính quyền thực dân Pháp đêm 9.3.1945, khởi sự giai đoạn gắt gao nhất của kỳ quản thúc. Các giáo sĩ bị ngược đãi bởi lính gác Nhật, mấy người bị đánh tàn nhẫn. Nhưng sự thử thách gay go của họ nói chung còn dễ chịu hơn những nơi tập trung khác dưới quyền quân đội Nhật. [9]
Sau đây là trích thuật lời của Cụ Mục sư Lê văn Thái về Cuộc Phấn hưng mà Chúa cho xảy ra để đáp ứng nhu cần công việc Chúa lúc bấy giờ.
“… Trong khi chúng tôi đang dốc toàn lực cho miền Bắc, thì ngày 10-2-1942, tôi bỗng nhận được thư của ông Mục sư Kiều Công Thảo, Chủ nhiệm Nam hạt mời tôi vào giảng cho Hội đồng Nam hạt nhóm tại Cần Thơ, thay cho Mục sư Hội trưởng Lê Đình Tươi thọ bệnh bất ngờ. Thoạt tiên tôi nghĩ là không thể đi được vì hai lẽ: thứ nhất, tôi không thể rời Bắc hạt trong lúc nầy; thứ hai, tôi chưa chuẩn bị và không biết ý Chúa muốn mình nói những gì với Hội đồng. Vả lại, ngày 14-2-1942, tôi phải có mặt tại Cao bằng để giảng bố đạo và phục hưng tại đó, nên tôi trả lời là không thể đi được.
Sau khi gởi điện văn từ chối không thể đến Cần Thơ, tôi liền nhận được một điện tín khác từ Nam hạt gởi ra, nội dung hết sức ép nài, mong mỏi tôi đến bằng mọi cách. Các giáo sĩ và mục sư tại Hà nội cũng khuyên giục tôi nên đi. Không thể làm cách nào hơn, tôi liền trải bức thư của ông Chủ nhiệm Nam hạt trên giường ngủ để cầu hỏi ý Chúa và xin Chúa giúp tôi quyết định hiệp ý muốn Ngài. Đêm ấy, trong giấc ngủ, tôi nằm chiêm bao. Khải tượng trong giấc chiêm bao ấy và sự dạy dỗ của lời Chúa trong sách Sáng. 46:4, giúp tôi có một quyết định hợp lý là ĐI.
Câu chuyện về giấc chiêm bao trên đây, ít lâu sau, được đăng tải trên vài tờ báo tiếng Anh bên Mỹ. Rồi một tờ báo Pháp cũng tường thuật lại với nhan đề: “Le Rêvu du Pasteur Thái”. Sở dĩ một giấc mơ thông thường như vậy được loan đi khắp nơi trên thế giới, vì chính đó là khởi điểm của một biến động do Chúa cho phép xảy ra để giúp đức tin tín đồ và nuôi sống Hội thánh miền Bắc từ năm 1942 đến đầu năm 1946.
Cụ Mục sư Thái tự thuật:
“Chiều hôm đó (19-2-1942) tôi dành thì giờ biệt riêng cầu nguyện trong phòng. Tâm trí tôi xoay chung quanh hình ảnh: Con lừa con của con lừa cái, đưa Chúa đi giữa sự hoan hô của đoàn dân đông. Tôi tự nhiên nhận thấy mình đơn sơ như con lừa con, và tôi đã cúi đầu thầm nguyện: "Lạy Chúa, nếu Chúa dùng, xin Ngài ngự vào lòng con, cho con những ý tốt đẹp và những lời đầy ơn để nói với Hội đồng hầu cho danh Chúa được vinh hiển”. Trong đêm tối, ý tưởng trên đây quấn quít lấy tôi, tôi không ngớt cầu xin với Chúa: "Con là con lừa ngây dại, nhưng xin Chúa dùng con trong dịp nầy để tôn cao danh Ngài”.
“Hội đồng qua một ngày với nhiều phước hạnh. Phần đông ăn nuốt lời Chúa cách sốt sắng lạ thường. Chiều hôm sau là giờ nhóm riêng cho thanh niên. Tôi dùng Thi thiên 119:9 để làm nền tảng cho bài giảng. Chúa giúp tôi khai thác sâu rộng ý nghĩa của tiêu đề: “PHẢI LÀM SAO CHO ĐƯỜNG LỐI MÌNH ĐƯỢC TRONG SẠCH”. Giải đề cho tiền đề trên đây là: “PHẢI CẨN THẬN THEO LỜI CHÚA”. Mục đích của bài giảng nầy nhằm khuyến khích thanh niên đọc lời Chúa và vâng giữ lời Ngài. Bổ túc cho giải đề của tiền đề là tiêu đề của vua Đa-vít: “TÔI ĐÃ GIẤU LỜI CHÚA TRONG LÒNG TÔI, ĐỂ TÔI KHÔNG PHẠM TỘI CÙNG CHÚA”.
Trong khi tôi đang giảng, thì một thanh niên đứng lên khỏi ghế mình, tiến về phí tòa giảng, nước mắt trào ra, cổi áo ngoài đặt lên bàn và nói: “vì công việc Chúa tại Bắc hạt, tôi xin dâng vật nầy”. Tiếp đến là một thiếu phụ tiến về phía tòa giảng vừa đi vừa khóc, cổi đôi bông tai để lên bàn và lặp lại câu nói của người thanh niên: “Vì công việc Chúa tại miền Bắc, tôi xin dâng vật nầy”.
Không phải như câu chuyện vua Nê-bu-cát-nết-sa chiêm bao rồi quên hẳn đi như đã được chép trong Đa-ni-ên đoạn 2. Nhưng sự thật tôi đã quên lửng những gì tôi đã thấy trước khi vào dự Hội đồng. Bây giờ thái độ hành động của thanh niên và thiếu phụ nầy bỗng nhắc tôi nhớ lại một đoạn phim đã được xem qua.. ‘trong giấc mơ’. Những người bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt tôi, đây chính là những người tôi đã thấy trong khải tượng. Tiếp đó, người cởi giày, kẻ cởi áo, bông tai, đồng hồ chen lấn nhau tiến về phía tòa giảng để dâng vật tốt nhất mà mình đang có cho công việc Chúa ở miền Bắc. Trong số những người dâng trên đây, có bà Giáo sĩ D. I. Jeffrey dâng một cái đồng hồ đeo tay rất quí giá.
Những tặng vật trên đây tôi giao cho một ủy ban kiểm kê và lập phiếu gởi ra Hà-nội. Sau cùng, chúng tôi phải dùng hai chiếc va-li lớn mới đựng hết những món đồ cứu trợ nầy.
Sau Hội đồng Cần Thơ, tôi (Mục sư Lê văn Thái) ra thăm các Hội thánh Trung hạt và giảng choHội đồng Linh tu tại Đức phổ (Quảng Ngãi) ngày 24-2-42. Tôi dùng Êph. 3:14-19 làm nền tảng cho bài giảng. Khi tôi đang đọc đến câu: “ĐẾN NỖI ĐẤNG CHRIST NHƠN ĐỨC TIN MÀ NGỰ TRONG LÒNG ANH EM”, bỗng nghe có những tiếng khóc từ các hàng ghế nổi lên rồi lần lần lan rộng khắp nhà thờ. Một cô truyền đạo trẻ tuổi bước ra khỏi chỗ ngồi tiến về phía tòa giảng, vừa khóc vừa tháo đôi bông tai đặt lên bàn, nói trong màn lệ: "Tôi xin dâng vật tốt nhất mà tôi có để góp phần hầu việc Chúa ở Bắc hạt”. Quang cảnh cảm động khóc lóc giữa Hội đồng Cần Thơ mấy hôm trước đây bây giờ lại tái diễn tại Hội đồng Đức phổ. Tôi sững sờ không biết nói gì khác hơn là nức lòng ngợi khen quyền năng cao cả của Chúa Thánh Linh. Từng loạt người đứng lên, chen lấn nhau trong tiếng khóc Những đôi giày, những cái khăn, cái áo, những đồng hồ, nón nỉ, va-li được toàn thể anh em tín hữu tình nguyện hiến dâng cho công việc Chúa tại miền Bắc. Chúa đang giục giả lòng anh em. Tất cả đều nôn nả sốt sắng. Lửa Thánh Linh cuồn cuộn dâng cao. Tình yêu thương thật tràn ngập tâm hồn mọi người.
“Tối thứ tư, ngày 25-2-42, tôi giảng tại trường Kinh thánh Đà-nẵng. Chúa nhắc nhở tôi một đoạn ngắn trong thư II Tim. 1:13-14, rồi tôi dùng hai câu Kinh thánh nầy để làm nền tảng cho bài giảng. Chúa giúp đỡ tôi khai triển đầy trọn ý nghĩa mệnh đề sau đây: “HÃY LẤY LÒNG TIN VÀ YÊU TRONG ĐỨC CHÚA JÊSUS CHRIST MÀ GIỮ LẤY MẪU MỰC CỦA CÁC SỰ DẠY DÔ CÓ ÍCH”. Tôi đã trình bày với tất cả nhiệt tình. Lời Chúa do đó đâm thấu vào lòng toàn thể anh chị em sinh viên, học sinh. Cũng như tại Hội đồng Linh tu Đức phổ, trong khi tôi đang giảng bỗng có tiếng khóc từ giữa lễ đường vang lên, rồi một học sinh đứng dậy tiến lên về phía tòa giảng, cởi chiếc đồng hồ đeo tay đặt lên bàn, vừa khóc vừa nói: “Tôi dâng vật nầy để góp phần hầu việc Chúa tại Bắc hạt”. Tiếp theo đó, người nầy vừa đi xuống, người khác tiến lên, kẻ dâng đôi giày, người dâng cái nón, kẻ dâng chiếc nhẫn cưới, người dâng chiếc vòng hứa hôn. Có người lại chạy ngay về phòng trọ mang cây đờn, người khác lại mang chiếc va-li và cả những bộ quần áo đem dâng cho Chúa. Đức Thánh Linh làm việc rất lạ, đến nỗi người cư ngụ gần trường Kinh thánh có dịp nghe giảng cũng cảm động, chạy về nhà lấy tiền bạc và đồ vật đến dâng. Mọi người nhìn nhau, ánh mắt ngời lên trong một niềm tin yêu cảm thông hết sức đậm đà…
“…Đến sáng Chúa nhật, ngày 1-3-42, sau khi thờ phượng Chúa và giảng Kinh thánh, tôi bắt đầu tường thuật cho Hội thánh Hà-nội nghe những biến động trong cuộc hành trình vào Nam vừa qua của tôi. Những việc lạ lùng Chúa đã làm ở Cần Thơ, Đức phổ cũng như ở trường Kinh thánh Đà nẵng. Tức thì như có một luồng điện mạnh chạm vào lòng tất cả những con cái Chúa đang dự nhóm trong nhà thờ. Tâm hồn họ như tan vỡ, và bừng cháy bởi sự kính mến Chúa và tình yêu thương linh hồn đồng bào…
“…sau khi nhận được những tặng phẩm từ các nơi gởi về để cứu trợ cho công việc Chúa tại miền Bắc, Hội thánh tại Hà-nội liền phát động phong trào mua các vật đã dâng để tặng lại cho người dâng… Có thể bảo lửa Thánh Linh đã ngún cháy tại Cần Thơ, lan rộng ra miền Trung và cuối cùng bốc cháy mãnh liệt tại Hà-nội…
“…Bắt đầu từ đó, mọi người hết lòng hết sức góp phần hầu việc Chúa.
“… do biến động nầy, các Hội thánh Chúa ở Nam, Trung và Bắc đồng loạt thức tỉnh, tất cả đều ý thức được trách nhiệm của mình là phải làm sao cho Hội thánh được tự trị tự lập cách bền vững…”[10]
Về Những Bài Giảng.
Cụ Mục sư Lê văn Thái có một lối giảng tự nhiên, có một chút gì triết lý từ những sách Cụ Mục sư đã đọc, và như Cụ Mục sư đã khuyên các sinh viên Thánh Kinh Thần Học Viện chúng tôi cần học nghệ thuật khôi hài nên những bài giảng của Cụ cũng thể hiện những nét dí dỏm vui khiến người nghe không căng thẳng.
Nhắc đến Cụ Mục sư Lê văn Thái, là nói đến đời sống phục vụ Chúa trong những vai trò lãnh đạo Hội thánh trong những thời kỳ xao động nhất của lịch sử Đất Nước Việt Nam chúng ta, Đức Chúa Trời đã sử dụng Tôi Tớ của Ngài để lèo lái con thuyền của Hội thánh trong những cơn sóng to gió lớn bên ngoài đời nầy cũng như bên trong nội bộ Hội thánh. Chúng ta phải cảm ơn Chúa ít nhất hai điều khi nói về Cụ Mục sư:
1.      Đức Chúa Trời đã cho Cụ Mục sư can đảm và khôn ngoan để giữ Hội thánh của Chúa không nghiêng lệch chính trị đời nầy trong lúc chung quanh đầy áp lực. Lại ban cho Hội thánh nếm được một cơn phấn hưng về tinh thần dâng hiến để Hội thánh không lệ thuộc sống còn vào ngoại viện, mà biết tự đứng trên chân của mình. Điều tôi cảm phục là Cụ đã không lấy những công việc to lớn đó để đánh bóng tên tuổi của mình, Hội thánh của Chúa tại Việt Nam không hề xem Cụ Mục sư như một bậc thần thánh, chỉ nhìn xem Cụ như một công cụ được ân điển của Chúa dùng, và tôi cũng đã không hề nghe Cụ bóng gió Cụ là quan trọng. Cảm phục thay!
2.      Điều đáng cảm phục nữa của Người Đi Trước nầy là Cụ Mục sư quyết tâm bước xuống khỏi chiếc ghế Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam giữa lúc uy tín và ơn Chúa vẫn còn, vì biết rằng: Đã đến lúc thế hệ đồng vắng phải nhường cho thế hệ Đất Hứa. Mấy ai dám làm như vậy! Cảm phục thay!
Tuy nhiên, tôi muốn ghi thêm một câu chuyện ‘thiệt nhỏ’ để cảm ơn Chúa cho một người làm những việc lớn cũng biết những việc nhỏ, biết quăng lưới ké những mẻ cá lớn nhưng cũng biết câu từng con cá nhỏ. Cụ Mục sư kể cho các sinh viên Thần học chúng tôi rằng: ‘Khi Cụ về chủ tọa Hội thánh của Chúa tại Hà-nội, trong Hội thánh có một tín đồ làm Thủ quỹ Hội thánh rất có thế lực và tài lực nhưng vẫn còn hút thuốc khiến nhiều con cái Chúa vấp phạm mà không ai dám nói hay khuyên. Một hôm, Cụ Mục sư cảm nhận Đức Thánh Linh cáo trách và thúc giục Cụ đối diện với người tín đồ đó. Cụ Mục sư đạp xe đến nhà của ông Thủ quỹ Hội thánh nhưng sự e ngại khiến Cụ không dám ngừng nên đạp xe qua luôn. Chạy qua một đổi, Cụ thấy Chúa cáo trách Cụ quay trở lại, rồi lại chạy ngang qua, cứ thế mấy lượt. Cuối cùng không chịu được tiếng Chúa thúc giục, Cụ dừng xe vào nhà ông Thủ quỹ Hội thánh. Sau vài câu chào hỏi xã giao, Cụ lấy can đảm vào đề cho biết Cụ nghe biết ông Thủ quỹ chưa nhờ ơn Chúa từ bỏ việc hút thuốc khiến nhiều con cái Chúa vấp phạm. Lạ lùng thay, khi nghe Mục sư chủ tọa mới khuyên trách vài câu, ông Thủ quỹ Hội thánh bật khóc lớn và nói: 'Mục sư ơi, tôi đã chờ lời khuyên trách nầy mười mấy năm rồi”. Cảm ơn Chúa phép lạ đã xảy ra, đời sống của con cái Chúa được biến cải!
Chúa Jêsus đã phán với Phi-e-rơ: “Hãy theo ta,, ta sẽ cho ngươi nên tay đánh lưới người’, và Chúa Jêsus cũng phán với Phi-e-rơ: ‘Hãy ra biển câu cá, bắt lấy con cá nào dính câu…’ (Math. 4: 19; 17:27).
 
 
4.    MỤC SƯ TRẦN VĂN ĐỆ
 

Theo lời của Cụ Mục sư kể trong khi dạy và theo lời những người tôi có dịp tiếp xúc nói về Cụ Mục sư, thì Cụ Mục sư Trần văn Đệ xuất thân từ một gia đình giàu có, Cụ Mục sư lại là con trai một nên được nuôi như “trứng mỏng”, ngay từ tuổi trẻ đã có xe hơi để đi.
Tôi biết được Cụ Mục sư qua giờ học môn Kinh Nghiệm Truyền Đạo mà Cụ dạy trong Thánh Kinh Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang. Cụ Mục sư có dáng người cao và rất ốm (gầy), điều rất đáng chú ý là bao giờ Cụ Mục sư lên lớp cũng đúng giờ với chiếc xe Mobylette không thể lẫn vào đâu được, và với bộ veston cùng chiếc cà-vạt được thắt nghiêm túc ngay giữa cổ áo không hề bị lệch, da ngăm đen với cặp kính gọng to màu đen làm cho gương mặt có vẻ xương xẩu hơn với vầng trán cao, mái tóc luôn chải ngược về phía sau ôm sát. Và dường như không thấy Cụ Mục sư cười.
Có ba điều những người hầu việc Chúa đi sau học được ở Cụ Mục sư Trần văn Đệ:
1.      Về việc ăn uống:
Tôi - Mục sư Trần Thái Sơn, sống trong một gia đình không bao giờ ăn cá biển, món ăn nào mẹ của tôi cũng luôn khử tỏi hành cho thơm, kho thịt cá thì bỏ nước màu dừa đỏ đẹp, canh thì luôn chế thêm chút mỡ hành thơm lên mặt. Và tôi bắt đầu gặp khó khăn việc ăn uống lúc vào học một tháng Thánh Kinh Tiểu Học Đường tại Vĩnh Long với những thức ăn không giống như ở nhà mẹ của tôi nấu. Dù sao cũng chỉ chịu đựng một tháng và giữa Cần Thơ với Vĩnh Long cũng chỉ cách nhau 30 Km, cùng là người miền Nam Bộ cả, nên không đến nỗi.
Khi vào Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang, việc ăn uống thật sự trở nên rắc rối cho tôi ngay buổi ăn đầu tiên với món cá ngừ kho đã để nguội lạnh từ chiều do máy bay bị trễ. Từ xa, tôi đã ngửi được mùi tanh của cá biển; ngồi vào bàn ăn nhìn dĩa cá kho có một khứa cá duy nhất màu tái tái không phải màu đỏ tươi của nước màu dừa, tự nhiên thấy nghẹn. Gắp miếng cá lên, tôi thấy dòng nước quánh chảy xuống như nhớt cá thì không thể ăn được. Những ngày kế tiếp với những món ăn mùi vị không thể ăn được như: mực nhỏ xíu để nguyên con không lột bỏ da mực và mắt mực, ruột mực, đen tím; tô canh chua cá đuối lơ thơ vài cọng giá và ít khoanh ớt sừng… Lại thêm vài bạn học trong Viện đồng tâm trạng không ăn được, chúng tôi tìm cách gởi nhà bếp mua đồ ăn hộp của quân đội đồng minh bán ngoài chợ để cứu đói.
Tâm trạng đầy lo lắng ngồi vào lớp học môn Kinh Nghiệm Truyền Đạo của Mục sư Trần văn Đệ, nhìn gương mặt nghiêm trang, giọng nói đều đều nhưng nhờ âm hưởng rõ ràng từng lời, nên tôi chú ý nghe được. Cụ Mục sư thuật chuyện: Tôi (Mục sư Đệ), ở trong nhà riêng, cha mẹ tôi cho người giúp việc riêng, ăn uống với đũa bát riêng, khăn mặt dùng riêng… Khi ra hầu việc Chúa tại Hà-nội, một hôm tôi phải đạp xe vào vùng quê để thăm viếng. Gần đến trưa nắng thì đến nhà người tín đồ, ông ấy đang ở dưới ruộng nhìn lên thấy tôi, vui mừng chào lớn tiếng: Thầy vào thăm ạ. Ông ấy lật đật phác nước ruộng rửa mặt và tay chân cho bớt bùn đất, rồi vừa rút chiếc khăn chít trên đầu lau mặt, lau tay và ống chân vừa bước lên đon đả mời: Mời Thầy vào nhà xơi nước ạ. Ngồi vào bàn, vừa trò chuyện, ông tín đồ vừa vói tay lấy trên kệ gỗ sau lưng ấm trà cùng bốn chiếc cốc nhỏ đã bám đầy bụi thời gian do lâu rồi không dùng đến, nay có khách quý mới đem ra sử dụng. Ông lấy chiếc khăn còn vắt trên vai xuống phủi phủi lớp bụi đóng lâu ngày trên ấm và cốc, rồi lau lau. Tôi nhớ lại ông tín đồ lúc rồi đã dùng chiếc khăn đó lau mặt, lau tay, lau ống chân, bây giờ lau bộ đồ trà. Ông lại dùng chiếc chậu sành bước ra cái ao ngoài sân phủ đầy bèo, phác phác mặt nước ao múc lên ít nước đổ vào ấm trà, lại đun bếp nấu sôi. Lát sau ông vốc ít trà trong chiếc hộp thiếc bỏ vào ấm tích, rồi chế trà đó vào cốc mời: Mời Thầy xơi nước ạ. Tôi cầm cốc nước nóng lên, mùi trà mốc lâu ngày không sử dụng bốc lên và tôi nhìn thấy một vòng đỏ bầm quanh miệng cốc do lớp trầu bám lâu ngày không rửa sạch…
Không biết tại sao nước mắt tôi chảy, tôi nghe tiếng Chúa phán với tôi: “Nếu ngày nay ăn ở Thánh Kinh Thần Học Viện như vậy mà con không ăn được thì ra hầu việc Chúa con sẽ làm sao? Nếu ngươi chạy thi với kẻ chạy bộ, mà còn mỏi mệt, thì làm sao thi được với ngựa? Khi trong xứ yên lặng, ngươi được an ổn, nhưng khi sông Giô-đanh tràn, thì ngươi sẽ làm thế nào?” (Giê. 12:5). Chúa đã dùng câu chuyện một người hầu việc Chúa là con một của nhà giàu, sẵn sàng chịu mọi sự để hầu việc Chúa của Cụ Mục sư Trần văn Đệ để cứu tôi khỏi những khó khăn trong sự ăn uống. Sau nầy, khi ở trong tù vì cớ Chúa, việc ăn uống với những món ăn kỳ lạ chưa từng gặp đã trở nên dễ hơn cho tôi, những món ăn như: chỉ là chút thịt, chút đậu hũ, hâm đi hâm lại, những chén bắp muốn ăn phải gỡ từng hạt, những nải chuối phải treo lên, ăn ruột chuối trước sau đó phải ăn cả vỏ chuối,… biết bao khó khăn, nhưng bài học của Cụ Mục sư Đệ được Chúa ấn sâu trong tâm trí tôi đã đưa tôi vượt qua.
Lời Chúa dạy tôi: “vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phil. 4:11-13).
Kinh nghiệm hầu việc Chúa:
Cụ Mục sư dạy chúng tôi cẩn thận đối với việc giao tiếp phụ nữ trong ngoài Hội thánh. Cụ căn dặn chúng tôi Đừng bao giờ chở một người phụ nữ nào ngoài vợ mình, kể cả con gái lớn của mình, để tránh hiểu lầm. Có người trong lớp chúng tôi hỏi Cụ Mục sư: 'Thưa Giáo sư, nếu đi đường có chị phụ nữ nào trong Hội thánh muốn đi nhờ, thì phải làm sao?’ Cụ Mục sư trả lời: ‘Thầy hãy nói với người phụ nữ đó đứng tại chỗ, chờ Thầy đi kêu một xe khác đến chở giúp; hoặc Thầy đưa xe cho người phụ nữ đó mượn’. Lại có người cắc cớ nói: 'Thưa Giáo sư, đưa xe cho mượn rủi mất xe rồi sao?’ Cụ Mục sư bình tĩnh trả lời: ‘Thầy ơi, thà mất xe hơn là mất hạnh phúc gia đình’.
Cụ Mục sư kể rằng, trong Hội thánh Cụ hầu việc Chúa có vài cô muốn học đàn (đàn phong cầm – Harmonium thời đó). Cụ bằng lòng dạy, nhưng Cụ cho người chuyển chiếc đàn đến nơi Bà Cụ Mục sư đang làm bếp hoặc giặt giũ.
Cụ Mục sư Đệ cũng cho biết trong nhà, ông thích ăn cơm khô, bà thích ăn cơm nhão, để giữ hòa khí trong nhà, ông đề nghị bà nấu một bữa khô một bữa nhão. Một mặt trái trong gia đình người hầu việc Chúa được giải quyết êm đẹp.
Khi Cụ Mục sư giữ chức vụ Chủ Nhiệm Địa Hạt Nam Trung Bộ. Cụ thuật có lần đến thăm một Hội thánh ở quê nghèo, khi đến nơi, Thầy Truyền đạo chủ tọa rất mừng, bảo Cụ ngồi nơi phòng khách tư thất lụp xụp, Thầy Truyền đạo bước ra nhà sau làm gì đó mà Cụ Mục su nghe lụp cụp như có tiếng khui đồ hộp, Cụ tò mò bước ra sau nhìn, hình ảnh làm Cụ chảy nước mắt, hóa ra nhà không có ly uống nước, Thầy Truyền Đạo đang hì hục cạy chiếc lon làm ly uống nước. Một lần thăm viếng khác, Cụ bất ngờ được nghe một Thầy Truyền Đạo vừa khóc vừa kể nỗi tức giận một vị Mục sư ở Hội thánh kế cận nói xấu Thầy, với bao nỗi tức giận Thầy quyết định hôm ấy nói hết với Cụ Mục sư Chủ Nhiệm, Thầy cũng cho biết Thầy đã viết một bức thư dài sẽ gởi cho vị Mục sư đó, sau khi gởi, Thầy sẽ làm đơn từ chức hầu việc Chúa. Cụ Mục sư Chủ Nhiệm nghe xong, bảo Thầy cho Cụ mượn bức thư định gởi để xem qua. Đọc xong bức thư, Cụ nói với chúng tôi là những lời trong thư nặng nề lắm, nhưng Cụ bình tĩnh nói với Thầy Truyền đạo: “Tôi đề nghị Thầy để đôi ba hôm sau hãy gởi. Mà để không quên, Thầy để chỗ nào dễ thấy để nhớ gởi”. Thầy Truyền đạo đồng ý. Cụ Mục sư không nói lời nào nũa, chỉ hỏi thăm công việc Chúa rồi cầu nguyện cho Thầy, Cụ ra về. Khoảng hai tuần sau, Thầy Truyền đạo đến Văn phòng Địa hạt xin gặp Cụ Mục sư Chủ nhiệm để báo cho biết Thầy không gởi thư đó và đã hủy bỏ rồi. Cụ Mục sư hỏi tại sao? Thầy Truyền đạo khóc nói với Cụ: 'Thưa Cụ Chủ Nhiệm, con vâng lời Cụ Chủ Nhiệm để bức thư trên bàn viết của con, ngày nào con cũng đem ra đọc lại, mấy ngày sau, con thấy con viết thư lời lẽ nặng nề không đúng tư cách người hầu việc Chúa, nên con cầu nguyện ăn năn xin Chúa tha thứ cho con và cho vị mục sư kia, rồi con xé bỏ thư. Hôm nay con xin gặp Cụ Chủ Nhiệm để nói rõ hầu Cụ yên tâm không buồn con”.
Một kinh nghiệm lãnh đạo thật cao quý, chẳng những giải quyết được việc mà cũng không ‘ghim’ cấp dưới. Cao quý thay!
2.      Kinh nghiệm ngoại giao:
Cụ cho biết khi Cụ mới ra hầu việc Chúa tại Hà-nội, Giáo sĩ Wm. Cadman cùng Cụ đi thăm Chánh quyền là người Pháp. Giáo sĩ Cadman dùng xe hơi chở Cụ Mục sư đi. Khi đến nơi, vào văn phòng của sĩ quan Pháp, vị sĩ quan Pháp chỉ chiếc ghế duy nhất trong phòng mời Giáo sĩ Cadman ngồi, nhưng Giáo sĩ Cadman không ngồi mà: ‘Mời Thầy Truyền đạo Trần văn Đệ ngồi’. Vị sĩ quan Pháp bị bẻ mặt, lật đật kêu người đem thêm ghế cho Giáo sĩ Cadman ngồi. Cụ Mục sư thuật lại kinh nghiệm nầy với những lời tôn trọng Giáo sĩ Cadman đã dành cho người Truyền đạo trẻ Việt Nam sự tôn trọng.
Nhơn đó Cụ Mục sư cũng nói đến vài kỷ niệm về Giáo sĩ Cadman: Giáo sĩ Cadman là người nóng tánh, nên bà Giáo sĩ Cadman ít khi để chồng lái xe. Khi bà lái xe, ông hay thúc hối bà lái nhanh hơn, nhưng bà cứ ‘ừ hử’ và tiếp tục giữ nguyên tốc độ. Bà Giáo sĩ cũng tiết kiệm tiền để có dư lo công việc Chúa, bà tự tay cắt tóc cho ông, tự tay làm những chiếc cà-vạt, khăn tay cho ông,.. tất cả bà đều tính tiền để ông phải trả. Bà có một chiếc hộp gỗ chia nhiều ngăn, mỗi lần tiền ông trả, bà để vào những ngăn đó, một khi có công việc Chúa cần, bà lấy tiền đó dâng giúp. Cũng nên nói thêm, ông bà Giáo sĩ Cadman là người Anh quốc, dâng mình hầu việc Chúa với Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Ông bà đã nhơn lúc bị người Nhật cầm tù tại Mỹ tho, dùng thời gian biên soạn Bộ Thánh Kinh Từ Điển cho Hội thánh Việt Nam, ông bà đã dùng tiền chia gia tài trong gia đình dâng làm Nhà in Tin Lành đầu tiên tại Việt Nam tại Hà-nội, sau chuyển vào Đà-lạt. Ông bà đã qua đời tại Việt Nam, được chôn tại Đà-lạt, nhưng đáng buồn là sau nầy có người lại đào mộ của Giáo sĩ lấy hài cốt giả làm hài cốt lính Mỹ tại Việt Nam. Nói theo nhà thơ Giang Nam:
Xưa tôi yêu quê hương vì có hoa có bướm,
Nay tôi yêu quê hương vì có một phần máu thịt của người yêu – tôi xin thay đổi một chút: vì có một phần máu thịt của người yêu quê hương tôi.
Thú thật từ ngày rời Thánh Kinh Thần Học Viện đến nay, tôi chưa được nghe một Trường hay Chủng Viện Kinh thánh nào trong trách nhiệm đào tạo người hầu việc Chúa có một môn học gọi là Kinh Nghiệm Truyền Đạo. Phải chăng ngày nay không có những vị Giáo sư dạy Kinh Nghiệm Truyền Đạo như Cụ Mục sư Trần văn Đệ? Người xưa dạy: ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ chí lý thay. Sứ đồ Phao-lô dạy: “tôi hầu việc Chúa cách khiêm nhường…phải khiêm nhường đến điều… hãy khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình”, Sứ đồ Phi-e-rơ là sứ đồ trưởng dạy: “phải trang sức bằng khiêm nhường…” (Công vụ. 20:19; Êph. 4:9; Phil 2:3; I Phi. 5:5).
*****************************
 
 
5.    MỤC SƯ VŨ VĂN CƯ

 
Mỗi vị Mục sư Giáo sư Thánh Kinh Thần Học Viện có một tánh cách khác nhau, nhưng về tinh thần thể thao thì chỉ một mình Mục sư Vũ văn Cư có. Tôi tin rằng tất cả những anh em hầu việc Chúa từng ngồi dưới mái Trường Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang không thể quên được hình dáng tướng đi chắc nịch của Vị Mục sư nầy khi ông với quần short áo thun bước xuống sân bóng chuyền của Viện vào những buồi chiều sau giờ học.
Vì Thánh Kinh Thần Học Viện được xây dựng trên một ngọn đồi nhìn ra thắng cảnh Hòn Chồng Nha Trang. Tôi được kể lại rằng, khi Trường Kinh thánh tại Đà Nẵng được BanTrị Sự Tổng Liên Hội biểu quyết di dời vào Nha Trang, Đức Chúa Trời đã dùng Ông Bà Giáo sĩ Revelle dâng toàn bộ tài sản được chia trong gia đình để xây dựng Thánh Kinh Thần Học Viện. Lúc bấy giờ, có một người Pháp phải trở về Pháp nên tìm cách bán lại khu đất Hòn Chồng, Đức Chúa Trời dùng Mục sư Duy Cách Lâm là một mục sư lai Pháp đứng ra liên lạc và lo mọi thủ tục mua sở đất trên. Công việc mua khu đất ban đầu tưởng dễ, nhưng khi tiến hành thì gặp rắc rối do những người thuộc một tôn giáo dựa thế lực của Tông thống Ngô Đình Diệm để ngăn cản. Cảm ơn Chúa cho Mục sư Duy Cách Lâm vượt qua được, chỉ duy cuối cùng bởi sự can thiệp trực tiếp của Tổng thống Ngô Đình Diệm thì Hội thánh Tin Lành bằng lòng nhượng lại khu Hòn Chồng làm thắng cảnh quốc gia. Cũng nhờ việc bị gây rắc rối, nên Mục sư Duy Cách Lâm đã có đủ mọi giấy tờ hợp pháp. Khu đất là một ngọn đồi nhiều cây cối rậm rạp, từ đó Mục sư Duy Cách Lâm đã cho cắt ngang ngọn đồi để xây dựng, dùng những cây giáng hương mọc trên ngọn đồi đó làm trần nhà và những tủ bàn trong Viện. Thánh Kinh Thần Học Viện thiết kế hình chữ U, gồm hai dãy phòng một trệt một lầu làm chỗ ở cho các sinh viên, các sinh viên độc thân thì ở trên lầu với một phòng có thể chứa năm người, tầng trệt được ngăn hai dùng cho các sinh viên có gia đình với qui định chỉ được đem theo một con nhỏ. Một dãy ngang làm các phòng học với một phòng dài làm Lễ Bái Đường, tất cả các phòng học đều được trang bị băng ghế ngồi có chỗ để viết. Có sáu ngôi nhà của các Giáo sư, cùng một nhà thờ lớn đẹp bên cạnh nhà của Mục sư Viện Trưởng. Thánh Kinh Thần Học Viện có một phòng ăn của các sinh viên có thể chứa trên 200 người, cạnh đó là nhà bếp, cũng có nhà giặt quần áo, các phòng vệ sinh tiện nghi. Thánh Kinh Thần Học Viện có một Thư Viện khá nhiều sách với dự kiến lên 15.000 đầu sách và còn đang xây dựng một Thư Viện riêng ngoài hướng Hòn Chồng.
Vì là một khu biệt lập cách xa thành phố, nên trò chơi giải trí duy nhất là sau giờ học mỗi chiều, anh em sinh viên có dịp xuống sân bóng chuyền để vận động thư giãn, hoặc cũng có thể đi bơi nơi bãi biển hàng dương gần đó.
Trong những giờ thể thao nầy, Mục sư Vũ văn Cư thường xuống sân và vào đánh bóng chuyền với anh em sinh viên. Mục sư Cư có sức khỏe rất tốt, có thể nói tốt hơn tất cả các giáo sư trong Viện, kể cả các Giáo sư Giáo sĩ người Mỹ. Khi Mục xư Cư xuống sân luôn được anh em hoan nghinh bằng một tràng pháo tay, chơi vài hiệp thì ông xin nghỉ, những lúc như vậy, anh em sinh viên bắt gặp một vị Giáo sư bình dị, hòa đồng với anh em, tinh thầy-trò thân mật, khác với vẻ nghiêm khắc trong lớp của Mục sư.
Trong lớp, ít khi Mục sư Cư cười, mà có cười cũng chỉ mỉm cười, cộng thêm cách cho điểm của Mục sư Cư rất gắt. Có một anh em trong lớp của tôi làm bài thi môn Lịch sử Hội thánh, không biết làm bài thế nào mà Giáo sư cho 69¾ trong khi điểm tiêu chuẩn là 70, thầy ấy bị điểm đỏ, theo qui định như vậy là rớt. Thầy ấy gặp Mục sư Cư xin cho thêm ¼ điểm nhưng không được nên đành phải thi lại.
Mục sư Vũ văn Cư dạy môn Lịch sử Hội thánh, môn Âm nhạc và môn Việt văn III. Khi tôi vào năm thứ I thì Mục sư còn dạy một môn học đối với tôi rất quý, đó là môn Giáo Nhạc Sử, học biết về quá trình hình thành âm nhạc trong Giáo hội từ sơ khai đến hiện đại, rất tiếc là năm sau đó Viện đã không còn cho học môn nầy. Môn học cho biết thuở Hội thánh đầu tiên hát Thi thiên, lần lần qua Giáo hội tại La Mã đã đọc những Thi thiên theo tiếng La-tinh, vì tiếng La-tinh có giọng lên xuống như nhạc điệu, như Bài Thánh ca số 27 của Thánh ca Tin Lành Việt Nam đó là giọng ê a xướng Kinh.
Tôi chưa tìm thấy hoặc nghe được một tài liệu nào nói về Mục sư Vũ văn Cư làm chủ tọa Hội thánh, Đức Chúa Trời đã cho Mục sư Vũ văn Cư ân tứ về âm nhạc để lo cho tiền đồ của Hội thánh Chúa tại Việt Nam, đặt nền cho sự ca ngợi Chúa qua quyển Thơ Thánh không có nhạc sau đó có nhạc với những lời mộc mạc chân thành (còn lưu lại một số bài phía sau quyển Thánh ca đang lưu dụng), rồi đến quyển Thánh ca khổ lớn, cuối cùng là quyển Thánh ca khổ tiện dụng. Tôi ghi vào đây lời của một mục sư trẻ thuộc Hệ Tư gia nói về Thánh ca trong đó là công khó của Cụ Mục Vũ văn Cư: “Mục sư ơi, Hội Thánh con rất cần những quyển thánh ca bìa xanh ở nhà thờ truyền thống vẫn thường hay sử dụng, vì những quyển thánh ca tư gia toàn đoản ca, vui nhộn nhưng không chứa đựng Lời Chúa, đã từ mấy năm nay, con liên tục photo những bài thánh ca trong quyển xanh của nhà thờ truyền thống, vào mỗi tuần, vừa đắt đỏ và hay thất lạc, vì nó là bài đơn lẻ cho nên mọi người không giữ được Mục sư ạ. Con rất cảm động vì những lời trong những bài thánh ca đó rất sâu sắc và chứa đựng Lời Chúa rất thâm sâu, gây dựng…”
Mục sư Vũ văn Cư dạy môn nhạc là một môn bắt buộc của Thánh Kinh Thần Học Viện, vì (theo tôi) chủ trương của Viện là đào tạo người ra hầu việc Chúa không phải dạy như một khoa trong Trường Đại học, mà ngoài những hiểu biết cần về Kinh thánh, Thần học, người hầu việc Chúa còn cần biết ít nhiều về âm nhạc để hướng dẫn hội chúng hát ngợi khen Chúa. Đó là lý do môn âm nhạc là bắt buộc với mục đích không phải để sinh viên ra Trường trở thành nhạc sĩ, nhưng ra thi hành chức vụ khả dĩ có thể hướng dẫn hội chúng hát ngợi khen Chúa. Bởi lý do đó, những bài học về âm nhạc mà Mục sư Vũ văn Cư dạy từ căn bản, đến những hợp âm và điều quan trọng là làm cách nào có thể hát bất cứ bài Thánh ca nào trong khi Hội thánh không có đàn. Cảm ơn Chúa cho Cụ Mục sư Cư đã tận tình chỉ dạy, dĩ nhiên cũng có người thành người không thành, cái lỗi do nhiều anh em cho rằng những bài học âm nhạc đó không cần thiết, nên khi ra Trường không hề áp dụng, phụ lòng của người Thầy.
Trong thời gian dạy, Mục sư Vũ văn Cư cũng phụ trách những chương trình Lễ của Thánh Kinh Thần Học Viện, như Lễ Khai Giảng, Lễ Kỷ Niệm Chúa Jêsus giáng sanh, Lễ Tốt Nghiệp. Tất cả những chương trình được Mục sư Cư dàn dựng khéo léo, ngay cả phần trang trí, thường theo chủ đề, nhất là phần ngợi khen Chúa của các sinh viên được Mục sư Cư tuyển chọn từ các sinh viên trong Viện rồi tập luyện cho hát. Có những bài Thánh ca được Mục sư dịch hoặc chuyển cung điệu rất đặc biệt, tôi không biết có ai trong Hội thánh Chúa hoặc những người trong gia đình của Cụ Mục sư còn giữ những bài đó không. Tôi còn nhớ được vài bài rất ấn tượng như:
Lúc vui lúc buồn, ngày ngày luân thứ,
Có Cha Ái Từ săn sóc tôi hoài…
Khi hát bài Thánh ca nầy, tình cờ có Giáo sĩ Long (tiếng Anh) đến thăm và giảng cho Viện, Giáo sĩ Long nói đến đời sống chức vụ mỗi người có một cái gánh với hai gánh nặng hai đầu, một đầu là vui còn đầu kia là buồn, nếu chỉ vui hoặc buồn hoài thì chúng ta không đi được, Chúa cho có lúc vui lúc buồn để cân bằng hai đầu giúp chúng ta đi được. Chí lý thay.
Hoặc bài Thánh ca Chúa ôi, cho tôi gần Ngài, được Mục sư chuyển đổi các giọng xen vào, nhất là phần câu cuối phần âm điệu thật vui tươi mô tả cảnh những người tin Chúa được bay lên không trung gặp Chúa:
Khi tôi bay lên Thiên cung, ôi thật khoan khoái!
Không trung trăng, sao, kim ô, tôi đều lướt qua.
Tôi luôn luôn hân hoan ca, xin Chúa đem tôi lại gần…
Chúa ôi, cho tôi gần Ngài, càng gần Chúa nay…
Kỷ niệm với tôi là những bài Nam Ban mà Mục sư Cư tập cho các Nam sinh viên chúng tôi trong Viện. Từ khi tôi tin Chúa chỉ nghe những bài hợp ca nam nữ ban, phải đến khi vào Thánh Kinh Thần Học Viện mới nếm được cái hay của hợp ca Nam Ban dưới sự hướng dẫn của Vị Giáo sư về Âm Nhạc của Viện. Chúa cho Mục sư Cư có chất giọng và cách lấy giọng rất cao để dạy cho cho giọng bè 2 của Nam Ban. Bài Thánh ca đầu tiên trình bày qua Nam Ban ghi ấn tượng trong tôi là bài Thánh ca: Khen Chúa! Ngợi Chúa!
Khen Chúa, ngợi Chúa,
Jêsus Đấng thi ân mua chuộc ta.
Ôi đất cùng hát ái tâm Ngài rao giảng ra.
Tôn Chúa, tụng Chúa,
Thiên sứ luôn cơ binh trên trời cao.
Danh Chúa đáng được năng lực tôn quý dường nào…
Tôi đã đem bài Thánh ca nầy tập cho ban hợp ca Nam Nữ Ban của Hội thánh Chúa tại Túc trưng nhơn ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ ngày 6 tháng 12 năm 1972. Trong ngày Lễ, sau khi tất cả khách mời đã vào trong nhà thờ còn đang đứng, Ban Hợp ca đã chúc tụng Chúa bằng bài Thánh ca nầy. Đến câu thứ 3 của Bài hát có lời:
Khen Chúa, ngợi Chúa,
Jêsus Đấng thi ân mua chuộc ta,
Muôn tiếng tụng tán Chúa thiên đàng: “Hô-Sa-Na!”
Các Thanh niên nam nữ trong Ban Hát vì cảm động lần đầu tiên mấy chục năm Hội thánh tại Túc trưng mới có được một cơ hội cung hiến Đền Thờ cho Chúa và có mặt đông đủ quan khách từ Chính quyền, các Tôn giáo bạn ở địa phương và đặc biệt lần đầu tiên có sự hiện diện đầy đủ các Vị Lãnh đạo Hội thánh Tin Lành Việt Nam từ Địa Hạt đến Tổng Liên Hội, cho nên khi dừng lại để tung hô Chúa “Hô-sa-na”, tiếng Hô-sa-na đã làm quan khách giật mình ngạc nhiên.
Điều không thể quên được công khó của Mục sư Vũ văn Cư đối với Thánh Kinh Thần Học Viện là Chúa đã dùng Mục sư Cư cộng tác với Giáo sư Giáo sĩ Sutherland trong nhiều năm, để quyên góp tài chánh cho Viện. Ai cũng biết chi phí điều hành Thánh Kinh Thần Học Viện một phần do sự giúp đỡ của Hội Truyền giáo Phước âm Liên Hiệp (The Christians and Missionary Alliance - CMA), đồng thời mỗi năm các Hội thánh lạc quyên vào Chúa nhật Thánh Kinh Thần Học Viện vào đầu tháng 9 là ngày Viện khai giảng, cũng có những ân nhân từ các nơi quyên giúp, thường là giúp cá nhân các sinh viên trong Hội thánh địa phương đến học, chỉ những sinh viên năm Tốt Nghiệp mới được miễn đóng học phí. Thánh Kinh Thần Học Viện còn phải lo cung cấp cho các sinh viên thực tập nữa. Cảm ơn Chúa cho thỉnh thoảng, Giáo sư Giáo sĩ Sutherland liên hệ được với các Mục sư Tuyên úy trong quân đội Mỹ hoặc Hàn quốc tổ chức cho Ban hát Sinh viên Đến ngợi khen Chúa vào những Chúa nhật, kèm theo lời làm chứng của đôi ba sinh viên, nhờ đó sự quyên góp được thêm vào ngân quỹ của Viện. Có khi Mục sư cùng đi, có khi chúng tôi đi cùng Giáo sĩ Sutherland; có khi Ban hát sẽ đi sau giờ học buổi chiều đến những nơi xa như Phan-rang, Qui nhơn, rồi quay về Viện giữa khuya. Những lúc đó Mục sư Cư chịu trách nhiệm tập luyện cho Ban hát, và thường khi Ban hát trở về dù ngày hay khuya, Mục sư Cư cũng có mặt để nói vài lời vui khích lệ Ban hát.
Mục sư Vũ văn Cư cũng dạy môn Lịch sử Hội thánh và môn Việt văn III. Cho đến khi viết những dòng chữ nầy, tôi vẫn hình dung được giọng đọc bài thơ Ông Đồ Già (tác giả Vũ Đình Liên) của Mục sư Cư, giống như những lời của bài thơ:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người quạ
 
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng baỵ
 
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
 
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
 
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Đọc bài thơ sao nhớ Thầy của tôi quá! Giờ Mục sư Vũ văn Cư đã ở với Chúa, chắn chắn ông thỏa lòng dùng ân tứ Chúa cho về âm nhạc ngợi khen Chúa. Một đời tận tụy, đến cuối dời Mục sư Cư bị ung thư xương hàm lần lần không còn nói được, phải tự nguyện từ chức Phó Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam qua những tiếng khều khào giữa Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1975.
Có một lần tôi được các em Thiếu niên thuộc Hội thánh Chúa tại Khánh hội - Quận 4 mời giảng cho chương trình Thánh nhạc nói về Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Ira Sankey, là tác giả có nhiều bài Thánh ca trong dịch trong quyển Thánh ca Tin Lành Việt Nam, nhất là bài Kìa chín mươi chín con chiên, trong khi tìm tài liệu, tôi được biết rằng, Ira Sankey là ca sĩ hát cho những buổi truyền giảng Tin Lành của Mục sư Dwight Moody, người ta nói Sankey hát khiến người ta tin Chúa nhiều hơn do Mục sư Moody giảng. Khi đến tuổi già, đôi mắt của Sankey bị mù, giọng đã khàn không thể hát được nữa, có người bạn đến thăm vả hỏi Ira Sankey rằng: Sankey đã một đời tận tụy hầu việc Chúa, bây giờ già bị mù, bịnh, ông có buồn không? Truyện kể rằng, để trả lời cho câu hỏi đó, Sankey đã lần mò đến bên chiếc đàn phong cầm, và vừa dạo đàn Sankey vừa cất giọng khàn đục của mình hát bài Thánh ca Kìa, màn sương tiêu tan, và đêm đó tôi đã hát những câu trả lời của Sankey:
Ngàn lần tôi đau trong tâm linh,
đuối sức đương khi đi trên nẻo gai,
Thân gian lao trong nơi u minh,
ruộng xa xăm lo gieo, nước mắt tuôn.
Nhưng lời Chúa phán:
"Hãy đến! hỡi người trung tín! sẽ thưởng cả công khó”.
Chính lúc sương âm u tiêu tan
thì anh em sẽ biết Chúa rõ hết.
Tôi sẽ biết giống Chúa biết tôi.
Nay cô đơn sẽ có Chúa luôn.
Buổi mai rất sáng láng,
rất phước hạnh, hừng đông hoan hô Jêsus đến!
Chính lúc sương âm u tiêu tan
thì anh em sẽ biết Chúa rõ hết”.[11]
Đó không phải là câu trả lời hay nhất của Mục sư Vũ văn Cư – người đã dâng hết ân tứ âm nhạc để Chúa sử dụng - cho câu hỏi: Tại sao Chúa cho phép bịnh ung thư xảy ra trong cuối đời sao? Tôi xin phép được sửa lại vài từ trong bài thơ Ông Đồ để viết về Mục sư Vũ văn Cư:
Năm nay hoa đào nở,
Không thấy vị Thầy xưa.
Những học trò năm cũ,
Lòng ở đâu bây giờ?
 
**********************************
 
 
6.    MỤC SƯ PHAM XUÂN TÍN.

 
Phải nói Cụ Mục sư Phạm Xuân Tín là vị Mục sư duy nhất trong Hội thánh Tin Lành Việt Nam viết nhiều đầu sách giá trị tham khảo. Khác với Mục sư Lê văn Thái là người viết sách, ngoài quyển ‘Hồi Ký 46 Năm Chức Vụ’ là tự truyện, các sách còn lại là dạng bồi linh do sự suy gẫm lời Chúa của cá nhân Cụ. Hãy thử điểm qua một số đầu sách Mục sư Phạm XuânTín là tác giả:
1.      Cụ Mục sư Phạm XuânTín đã được Chúa ban cho ân tứ viết sách báo từ ngày bắt đầu công cuộc Truyền giáo giữa những người Dân tộc thiểu số vùng Cao nguyên, Mục sư Tín đã phát hành Tạp Chí Truyền Giáo với những bài viết và hình ảnh công việc Chúa giữa các Sắc tộc, trong đó có sắc tộc Bahnar mà Cụ hết lòng rao truyền Tin Lành cứu rỗi của Chúa Jêsus Christ cho họ, đến nỗi ông bà Cụ Mục sư Tín đã đặt tên cho con trai trưởng của ông bà là Phạm Xuân Bahnar Trung.
2.      Cụ Mục sư Tín đã viết sách nhỏ tựa đề “Đời Tận Tụy” ghi lại công khó hầu việc Chúa của những người từ ngày đầu của Hội thánh trên đất nước Việt Nam, dù chỉ ghi sơ lược của một ít người, trong đó có những Mục sư như Cố Mục sư Hoàng Trọng Thừa là Hội Trưởng đầu tiên của Hội thánh, đến người hầu việc Chúa là người Sắc tộc, đến người tín đồ bình thường nhưng đầy lòng yêu mến Chúa đã dâng đời sống mình phục sự Chúa.
3.      Quyển “Thánh Kinh Nhập Môn” chứa rất nhiều tài liệu cho người muốn học hỏi về Kinh thánh, nhất là lịch sử của Kinh thánh, kể cả thời kỳ 400 năm yên lặng, sự hình thành các Phe Nhóm Pha-ri-si, Sa-đu-sê… xuất hiện trong Tân Ước. Chắc chắn quyển sách nầy đã làm Cụ Mục sư tiêu hao nhiều tâm sức tra cứu tài liệu hiếm có trong Làng Văn Phẩm Cơ-Đốc Việt Nam.
4.      Quyển “Thần Học Căn Bản” là những bài Thần học mà Cụ Mục sư đã dạy trong Thánh Kinh Thần Học Viện, vì là căn bản, nên tóm gọn các lẽ đạo căn bản.
5.      Quyển “Tìm Hiểu Các Giáo Phái”, nhất là các Giáo phái Tin Lành chính thống, rất ích lợi cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam trong quá trình còn mới mẻ khi phải tiếp xúc với các Giáo phái đang tìm cách xâm nhập vào Việt Nam.
6.      Ngoài ra Cụ Mục sư đã viết rất nhiều đầu sách dù không phải là những tác phẩm đồ sộ, nhưng cộng lại sẽ thấy là Một Công Trình Đồ Sộ cho người hầu việc Chúa trong Hội thánh Tin Lành tại Việt Nam, như Lược sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam, Kỷ Niệm 50 năm, rồi 60 năm Tin Lành Việt Nam, Chúa Tái Lâm… Cụ đã dày công từ những năm đầu của công cuộc truyền giáo trên Cao nguyên vào thập niên 30 – 40 dịch Kinh thánh ra nhiều loại tiếng Người Sắc tộc thiểu số để đem Tin Lành yêu thương cho đồng bào cao nguyên.
Cụ Mục sư Tín có một cách viết sách là dường như Cụ Mục sư cố gắng đưa vào sách nhiều tài liệu mà Cụ có được để người đọc hay học đỡ nhọc công, có thể nói, sách của Mục sư Tín viết không phải là một quyển mà mỗi quyển là một Bộ Sưu Tập công phu.
Ngoài những sách thuộc loại trên, Hội thánh Tin Lành Việt Nam phải ghi nhớ công khó của Mục sư Phạm Xuân Tín trong công việc Truyền giáo Thiếu Nhi. Điều ngạc nhiên là dù cao tuổi, nhưng Cụ lại dạy môn Truyền Giáo Thiếu Nhi trong Thánh Kinh Thần Học Viện, dạy cách tận tình, dạy với nhiều tài liệu. Ngoài tài liệu Giáo khoa, Cụ Mục sư cũng dạy làm Thị Cụ, soạn dịch những bài hát Thiếu nhi – những Bài hát Thiếu nhi nầy đã phát hành nhiều tập, được các sinh viên trong Viện sử dụng cho các lớp Thiếu nhi, vừa dễ hát, vừa dễ hiểu đối với các em Thiếu nhi. Chúng ta hãy thử xem một lời vài bài hát thiếu nhi của Mục sư Tín:
5 BÁNH VÀ 2 CÁ
Đây đoàn dân đông đang đói mệt,
Bàn tay nầy trông thật nghèo nàn,
Duy còn đây 5 chiếc bánh mì và cá chỉ một cặp thôi.
Trao vào tay Giê-xu tiếc gì,
Bàn tay nầy nay được đầy tràn.
Nhanh nhẹn em phân phát bánh mì.
Mười mấy thúng đầy còn dư
Nói lớn: MƯỜI HAI THÚNG!
Ê-LI CẦU MƯA
Thiết tha kêu xin thay cho dân tộc mình
Tiên tri Ê-li quỳ tại núi kia.
Ác gian quăng xa, Giê-hô-va nhậm lời,
Từ trời Ngài trút một cơn mưa.
Ào ào ào, sấm sét thi nhau gào,
Sẹt sẹt sẹt, chớp xe màn đen tối
Mưa tuôn mưa đổ khi Ê-li kêu cầu…
GIÊ-XU CHO EM CÂY ĐÈN
Giê-xu cho em cây đèn, Giê-xu cho em cây đèn
Chiếu sáng khắp chốn Cha truyền,
Ánh sáng thánh phải giơ cao
Xua tối tăm, soi đường đời, cứu mọi người.
Chúng ta phải tận mắt nhìn một Mục sư cao niên, gầy ốm, mái tóc điểm sương, đứng trên bục dạy cách sử dụng những thị cụ dạy Thiếu nhi, chúng ta mới thấy lòng cảm động sự tận tình đối với công việc thường dành cho những người trẻ - rất tiếc người trẻ không làm. Ngày nay các cháu thiếu nhi hát những bài mang tính người lớn nhiều quá, mất đi vẻ thơ ngây, giản dị của thiếu nhi. Bây giờ viết lại lời những bài hát nầy, tôi cảm ơn Chúa đã ban cho Mục sư Phạm Xuân Tín xây dựng một khải tượng mở mang công việc Chúa trên đất nước Việt Nam qua việc Truyền Giáo Thiếu Nhi. Cho đến ngày nay, không ai phủ nhận được hiệu quả của việc dạy đạo Thiếu nhi. Trong tài liệu Giáo khoa môn học, Mục sư Tín đã ghi lại những câu chuyện rất cảm động về thiếu nhi.
Truyển kể:
Nhà Truyền giáo Francoise Xavier đã nói: Hãy cho tôi những đứa trẻ, đến năn sau 7 tuổi, không ai có thể cướp nó khỏi tay tôi.
Có người hỏi Mục sư Moody sau buổi truyền giảng Tin Lành: Tối nay ông đã giảng có bao nhiêu người tin Chúa? Mục sư trả lời: Hai người rưởi. Người hỏi nói: À, ý Mục sư là có hai người lớn và một thiếu nhi. Mục sư Moody đính chính lại: Không, tôi muốn nói là có hai thiếu nhi và một người lớn. Vì người lớn đã thiêu đốt đời sống quá nửa, còn thiếu nhi chỉ mới thắp lên thôi.
Có một phụ nữ nói với Mục sư Moody: Thưa Mục sư, bài giảng của Mục sư làm tôi cảm động quá. Tôi bằng lòng đi giảng Tin Lành cho thế giới. Mục sư Moody lập tức trả lời: Tốt. Như vậy, tôi đề nghị bà về giảng Tin Lành cho những đứa con của bà trước.
Mục sư Tín có lòng quan tâm đến sự cứu rỗi của các thiếu nhi đến nỗi trong khi dạy về Thiên sứ trong môn Thần học, Mục sư khẳng định là các em thiếu nhi đều có thiên sứ của Chúa bảo hộ như Lời Chúa phán trong Math. 18:10, và Mục sư Tín thuật rằng trong một chuyến đi truyền giáo vùng cao nguyên, lúc ông rời nhà thì con của ông bà đang bị bịnh tại nhà, còn Mục sư bị lạc trong rừng, nửa đêm, Mục sư nghe tiếng như tiếng gió thổi ào ào trên những ngọn cây trong rừng, Mục sư nghĩ ngay đến thiên sứ của con mình báo tin người con ấy đã về với Chúa. Và quả thật vậy khi trở về nhà thì người con ấy đã được an táng.
Lòng yêu mến công việc truyền giáo thiếu nhi của Mục sư Phạm Xuân Tín đến nỗi ông tự quyên góp xây dựng một Trung Tâm Truyền Giáo Thiếu Nhi tại Nha Trang và cũng xin Tổng Liên Hội cử một Truyền đạo về lo cho Trung Tâm nầy.
Mục sư Phạm Xuân Tín là Giám học của Thánh Kinh Thần Học Viện, Mục sư cũng đảm trách dạy môn Thần học cho cả ba cấp trong Viện, ngoài những môn như Ngũ Kinh, Tiên tri Ê-sai, Giáo nghi. Có một lần tôi có việc lên văn phòng của Mục sư Tín, khi đến phòng thấy Mục sư Tín đang ngồi học tiếng Hi-bru, vì tuổi cao, Mục sư Tín lấy cây thước kẻ ngăn từng hàng để đọc. Mục sư Tín nói với tôi: “Tôi phải cố gắng học để có thể lo cho Viện”. Thật cảm phục tinh thần ham học của Mục sư Tín! Tôi được biết tự Mục sư xin học bổng để sang Úc du học lấy bằng Cao học Cơ-Đốc Giáo dục, Mục sư còn ước ao tiếp tục học nữa. Cũng từ việc học ở Úc nầy có một câu chuyện vui xảy ra. Lần đó Ban Thẩm vấn sát hạch chức vụ mục sư cho một Truyền đạo, buổi sát hạch nầy diễn ra trong phòng Ban Giáo sư Thánh Kinh Thần Học Viện. Khi thầy Truyền đạo từ phòng sát hạch bước ra với vẻ mặt buồn, các anh em trong Viện chen nhau hỏi thăm thì được biết Mục sư Tín hỏi thầy Truyền đạo nầy rằng: ‘Tôi nghe vài người trong đó có Thầy nói rằng Thần học Mỹ khác với Thần học Úc mà tôi (Mục sư Tín) đã học. Vậy Thầy cho tôi biết Thần học Mỹ và Thần học Úc khác nhau thế nào?’ Thầy Truyền đạo không thể trả lời, có người trong các anh em đang có mặt lên tiếng: ‘Thầy thiệt dở, thì khác nhau là Thần học Mỹ không có vợ, còn Thần học Úc có vợ’. Mọi người cười ồ lên, vì câu nói ám chỉ Mục sư Lê Hoàng Phu du học ở Mỹ mới về không có vợ.
Nói đến vấn đề Thần học tại Việt Nam, chỉ có hai vị Mục sư được nói đến nhiều nhất là Mục sư Phạm Xuân Tín và Mục sư Lê Hoàng Phu. Mục sư Phu có để lại một ít đầu sách cho Hội thánh nhưng chỉ là những sách dạng tham khảo như Thánh Kinh Phù Dẫn, Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam là Luận Án Tiến sĩ của Mục sư Phu; riêng Mục sư Tín thì chẳng những dạy Thần học, viết quyển Thần Học Căn Bản (giáo khoa tại Viện), Mục sư Tín cũng đã cố gắng phát hành Tập San Thần Học để phổ biến những quan điểm mới về Thần học, rất ích lợi để tham khảo, rất tiếc chỉ phát hành vài số đa phần trong nội bộ Thánh Kinh Thần Học Viện.
Mục sư Tín là một trong các vị Mục sư được cử đi dự những Hội Nghị nước ngoài nhiều. Năm 1966, sau khi dự Hội Nghị Truyền giáo Thế Giới tại Berlin (Tây Đức thời đó), do Đoàn Truyền giáo của Mục sư Billy Graham tổ chức để khích lệ Hội thánh thế giới quan tâm việc giảng Tin Lành, khi trở về, Mục sư Tín làm chứng lại trước Hội Đồng Mục sư Truyền đạo nhóm tại nhà thờ số 7 đường Trần Cao Vân. Mục sư Tín nói: “Trong Hội Nghị tại Berlin (TâyĐức), Mục sư Billy Graham nói: Người Mỹ nào cũng biết uống Coca Cola, thì người Mỹ nào cũng phải được nghe Tin Lành! Nghe xong câu nói đó, tôi (Mục sư Tín) nghĩ người Việt Nam (thời đó) ít người biết uống Coca Cola, thi phải nói làm sao? Hôm nay, tôi được Chúa dạy nói với Quý Vị: ‘Người Việt Nam nào cũng biết ăn nước mắm thì người Việt Nam nào cũng phải được nghe Tin Lành!”. Thật là một câu nói đáng phải ghi vào lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Biến cố 1975 tác động nhiều xáo trộn trong tình hình Hội thánh chung, Cụ Mục sư Viện Trưởng Ông văn Huyên phải về Saigon để giữ chức vụ Hội Trưởng, nên Tổng Liên Hội cử Mục sư Phạm Xuân Tín làm Phó Viện Trưởng quyền Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện. Trước tình hình mờ mịt của việc mở lại Thánh Kinh Thần Học Viện, Mục sư Tín đã can đảm viết thư gởi Hội thánh toàn quốc kêu gọi Hội thánh dành thì giờ Kiêng ăn cầu nguyện xin Chúa cho mở lại Viện. Bức thư kêu gọi kiêng ăn bị diễn dịch sai thành ra là lời kêu gọi tuyệt thực khiến Mục sư Tín trong tuổi già phải bị ngăm dọa, phiền trách, xúc phạm. Nỗi buồn của người hầu việc bất năng trước công việc Chúa khiến Cụ Mục sư phải xin hưu hạ để giảm bớt căng thẳng, về ở với các con.
Cụ Mục sư đã ghi lại những nhọc nhằn sau 1975 như sau:
“Hội đồng thường niên của Địa Hạt Nam Trung Bộ được tổ chức vào ngày 1 tháng 3 năm 1975 tại Nhà Thờ Tin Lành Thạnh Mỹ, quận Đơn Dương. Tôi được mời giảng cho hội đồng mục sư truyền đạo nhóm trước hội đồng chung. Hội đồng kéo dài trong ba ngày và tôi được hội đồng tín nhiệm đưa vào chức vụ chủ nhiệm Địa Hạt Trung Nam Bộ. Tôi chỉ biết cúi đầu nhận trách nhiệm Chúa giao, xin Ngài ban thêm ơn, thêm sức và quyền năng Thánh Linh để hầu việc Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Sau khi Hội đồng bế mạc, hai ban trị sự bàn giao công việc và tiếp nhận trụ sở tại 30 đường Nhà Thờ, Nha Trang để xúc tiến mọi công tác.
Lúc bấy giờ khóa học 1974-1975 chưa mãn, trụ sở Địa Hạt cách xa Thánh Kinh Thần Học Viện nên tôi phải ra vô trụ sở Địa Hạt để chu toàn mọi công tác. Theo sự xúc tiến và trao đổi giữa các vị trong cựu và tân ban trị sự thì tình hình các Hội thánh trong Hạt không phải dễ dàng nhất là sự băng hoại, tham ô, tội lỗi ngấm ngầm đục khoét làm đổ vỡ nhiều chức vụ và nhiều chi hội. Buổi họp đầu tiên của tân ban trị sự đã gặp ngay những sự đau lòng khi phải giải quyết những nan đề trong các chi hội mà có những vấn đề không đạt được kết quả tốt đẹp.
Những ngày tháng biến động
Tình hình nghiêm trọng. Mũi Né không xa Nha Trang cho lắm nhưng tôi không đáp ứng được lời mời của Hội thánh để chủ tọa lễ cung hiến nhà thờ. Ra đến bến xe thì được biết đường đi bế tắc. Không có xe chạy ra Mũi Né. Tiếp đến là những ngày mà đoàn người từ các nơi ồ ạt kéo về Nha  Trang trong đó có con cái Chúa nữa.
Tình hình khẩn trương. Chúng tôi biệt riêng nhiều thì giờ để cầu nguyện. Những ngày di tản đến. Học viên và giáo sư Thánh Kinh Thần Học Viện khăn gói về quê hương dầu mục sư Viện trưởng chưa ra thông cáo. Một số giáo sư ra đi lúc nào không ai hay biết. Số học viên và giáo sư còn lại ngày nào cũng nhóm họp cầu nguyện. Người ta bắt đầu đi hôi của, cướp phá giữa ban ngày. Nơi chúng tôi cư ngụ tại Thánh Kinh Thần Học Viện ở cuối đường hơi hẻo lánh nên mục sư Viện trưởng bảo chúng tôi đến tạm trú trong một phòng ở Thánh Kinh Thần Học Viện. Thế rồi tư thất chúng tôi cư ngụ lâu nay bị quân hôi của đến cướp phá. Lần thứ nhất tôi vắng nhà nên mất đồ đạc nhiều. Lần thứ hai họ đến với súng ống. Chúng tôi bốn người gồm các tôi tớ Chúa đang kiểm soát nhà cửa nghe tiếng súng nên ẩn núp trong nhà kho. Họ la lối hỏi chủ nhà đâu. Thế là tôi phải bước ra.. Quân hôi của bắn bốn phát súng vào tôi nhưng không trúng. Thật lạ lùng! Chúa là cái khiên che chở tôi. Vừa lúc đó, một con cái Chúa chạy xe Honda qua trước nhà, thế là họ cướp chiếc xe Honda của anh ta và tẩu thoát. Tín hữu các nơi ùn ùn đổ vào Nha Trang. Họ cần nơi tạm trú, cần tiền cứu trợ, cần thực phẩm… Thật là một cảnh hỗn loạn đau thương. Tôi triệu tập buổi họp tại trụ sở Địa Hạt tìm phương cách giúp đỡ con cái Chúa. Cũng vì cuộc họp này mà về sau tôi bị chính quyền lên án là xúi giục và cổ động cho tín hữu bỏ nước ra đi. Lý do khiến tôi bị lên án là có người báo cáo sai, chụp mũ và xuyên tạc. Sau khi thành phố Nha Trang và hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa hoàn toàn giải phóng, tôi phải đi đăng ký, lấy hộ khẩu chuyển từ Thánh Kinh Thần Học Viện ra trụ sở Địa Hạt, thu dọn đồ đạc còn lại, sách vở, tài liệu dọn về trụ sở Địa Hạt bắt tay vào chức vụ mới.
Nan đề chồng chất
Tân ban trị sự họp lại. Có nhiều vấn đề. Văn thư kiện cáo từ ban trị sự tiền nhiệm lưu lại hoặc mới nhận được. Tệ tham nhũng, ăn cắp đồ cứu tế và nhiều tội lỗi khác cần được loại trừ khỏi hàng ngũ mục sư truyền đạo và ban trị sự. Có vài trường hợp cần thay đổi nhiệm sở của các vị mục sư, truyền đạo chủ tọa Hội thánh nhưng gặp khó khăn vì các chi hội cũng như đương sự không vui lòng vì cố bám víu vào trường học và số tiền Hội Hoàn Cầu Khải Tượng trợ cấp cũng như số cứu tế nhận được hằng tháng. Ban viên ban trị sự của chi hội cũng là nhân viên của trường học nên cũng hưởng phần nào lợi lộc. Giáo hội đang đi xuống dốc. Điều đau đớn nhức nhối hơn nữa là khi ngồi trong Ban Trị Sự Tổng Liên, tôi phải nghe mấy ông thuộc Hội Hoàn Cầu Khải Tượng đến than phiền sự không phân minh của các mục sư truyền đạo khi nhận đồ cứu tế cho Hội thánh và họ kết luận: "Mục sư truyền đạo Việt Nam là vậy!” Thật là đau lòng. Tôi phải trung thực viết lại những điều nầy để con, cháu, chắt, chít học hỏi trong đời sống phục vụ và theo Chúa.
…………
Biến cố năm 1975 khiến nhiều nhà thờ bị bỏ trống. Các vị mục sư chủ tọa di tản. Các ban trị sự Hội thánh thỉnh cầu Địa Hạt cử người thay thế. Thật là đau lòng vì thiếu người chăn đến với các chi hội. Hơn thế nữa, sự thăm viếng của chủ nhiệm Địa hạt cũng bị giới hạn hoặc bị nghiêm cấm.
Ông bà Truyền đạo Nguyễn Công Trứ được bổ nhiệm đến Cam Nghĩa. Nơi đây có nhà nguyện, nhưng không có tư thất cho đầy tớ Chúa. Truyền đạo Đặng Linh Khoa hiệp cùng ban trị sự chở tôn ván từ nhà thờ Cam Ranh ra Cam Nghĩa, dựng một phòng phía sau nhà nguyện cho ông bà Truyền đạo Trứ. Công tác nầy gặp nhiều khó khăn ngăn trở nhưng rồi cũng được hoàn thành. Tôi vào thăm, tạ ơn Chúa và rất cảm thương đầy tớ Chúa sống trong sự thiếu thốn mọi bề. Dầu vậy, đầy tớ Chúa vẫn kiên trì phục vụ. Một ngày kia, Truyền đạo Trứ bị bắt, tôi đi can thiệp thỉnh cầu. Sau một thời gian ông được trở về rồi lại bị bắt lần thứ hai. Tôi lại đi can thiệp, Truyền đạo Trứ được trở lại với Hội thánh và gia đình. Ông bà tiếp tục hầu việc Chúa trong sự chật vật, phải làm rẫy, trồng lúa, khoai, bắp để sống.
Truyền đạo Toàn hầu việc Chúa ở Quảng Hòa phải đi nghĩa vụ. Địa Hạt cử Truyền đạo Lạc An đến thay nhưng chính quyền từ chối. Truyền đạo Trứ phải kiêm nhiệm.
Sau biến cố 1975, tại Đơn Dương, cụ Chấp sự Minh và ban trị sự hết lòng lo việc Chúa, bảo quản nhà thờ và chăm sóc con cái Chúa. Nhưng chẳng bao lâu, nhà thờ bị chính quyền quản lý. Cụ Minh qua đời. Ông Bá Nha thay thế, cùng với ban trị sự lo việc Chúa tổ chức những buổi nhóm riêng từng gia đình. Tôi lên thăm công việc Chúa lần thứ nhất bị giữ một đêm rồi bị trục xuất, đứng ngoài trời chờ xe đò về Nha Trang. Đói, khát, nắng nóng, bà cụ Minh thương cảm mua phở, đem nước đến tiếp trợ, rồi sau đó tôi đón được xe về Nha Trang. Lần thứ hai tôi đi thăm cùng với con trai Phạm Xuân Nhân. Anh chị em con cái Chúa thông công vui vẻ.
Tại Di Linh, Truyền đạo tập sự Võ Danh, dầu có sự ngăn trở đã quyết tâm hầu việc Chúa. Thầy dựng một chái gần bên nhà thờ để trú ngụ, sống tự túc bằng cách làm rẫy trồng khoai bắp. Rẫy người ta cho sử dụng cách xa nhà thờ những mười cây số. Tôi rất ái ngại cho sự an ninh của thầy mỗi khi đi làm rẫy gần khu rừng rậm. Thật vậy, một ngày kia, tôi nhận được tin thầy mất tích khi đi ra rẫy để giữ bắp. Tôi đến Di Linh nhưng không tìm được tông tích của Thầy Truyền đạo Danh. Ông chấp sự Bốn và ban trị sự phải điều hành công việc Hội thánh. Chẳng bao lâu, chính quyền quản lý và đóng cửa nhà thờ. Sau một thời gian thì được biết thầy phải đi học tập.
Truyền đạo Nguyễn văn Huệ ở Đà Lạt và Truyền đạo Nguyễn văn Thiệt ở Thạnh Mỹ đều đi học tập. Với cương vị chủ nhiệm, tôi đệ đơn can thiệp xin cho các tôi tớ Chúa được trở về sum họp gia đình hầu việc Chúa và cũng xin chính quyền cho lại các nhà thờ. Sau một thời gian chờ đợi không có kết quả, tôi xin giấy thông hành lên Đà Lạt với lý do thăm chị tôi, để lo vấn đề trên đồng thời thăm viếng Hội thánh. Tôi chưa lên đến nơi, thì nhà hữu trách đã đến nhà chị tôi thẩm vấn xem chị tôi thật sự có người em tên Phạm Xuân Tín hay không? Thời gian ngắn ở Đà Lạt, tôi đi thăm tín hữu và hầu việc Chúa tại Hội thánh hai Chúa nhật.
Rồi nhà hữu trách Đà lạt mời tôi đến gặp để giải quyết những vấn đề tôi đã nêu trong đơn. Chấp sự Trần Thế Huệ chở xe đạp đưa tôi đi. Vào phòng, tôi phải trình giấy thông hành, các giấy tờ liên hệ đến chức vụ. Một nhân viên chờ sẵn chụp hình khi họ bắt đầu buổi họp và lúc ký biên bản.
Họ làm việc với tôi suốt ba tiếng đồng hồ. Cuối cùng tôi bị bắt lỗi vì đã gởi thư xin tha cho hai vị Truyền đạo là vi phạm, tôi giảng đạo ở Đà Lạt là bất hợp pháp. Vị thẩm vấn nói rằng hộ khẩu tôi ở Nha Trang nên không có quyền xin can thiệp cho các vị Truyền đạo ở nơi khác. Trong gần ba tiếng đồng hồ làm việc, họ có cho nghỉ uống nước trà, ăn chuối. Khi được ra về, vị thẩm vấn đưa tôi ra tận cổng, tôi ngỏ lời mời vị ấy nếu có dịp đến Nha Trang thì xin mời ghé trụ sở Địa Hạt, tôi hân hạnh đón tiếp.
Khi được tin Mục sư Lê Khắc Cung bị bắt, tôi cũng đại diện Địa Hạt gửi đơn thỉnh cầu chính quyền cho ông được trở về phục vụ Chúa và sum họp gia đình. Sau một thời gian tôi nhận được văn thư trả lời rằng Mục sư Cung không lo lao động sản xuất, mà còn giảng đạo bất hợp pháp.
Tôi gửi đơn xin giấy thông hành để đi thăm các tôi tớ Chúa và các Hội thánh vùng Ban Mê Thuột, nhưng được trả lời: “Trên vùng ấy toàn Fulro, bác lên làm gì?” nên chính quyền không cấp giấy thông hành cho tôi. Do đó, suốt mười năm làm Chủ nhiệm cho đến khi về hưu, tôi vẫn chưa được trở về miền đất đỏ đầy kỷ niệm về những ngày tháng đầu tiên hầu việc Chúa giữa đồng bào sắc tộc.
Tại Cam Ranh, công việc Chúa đang phát triển thì ma quỷ lại tìm cách khác để chia rẽ Hội thánh Chúa. Thầy cô Truyền đạo Đặng Linh Khoa rất được ơn phục vụ Chúa đắc lực. Có một số tín hữu tư tưởng quá khích, chủ trương bỏ các lễ nghi như dâng con, báp-tem, trang trí ngày Lễ Giáng Sinh… nên bỏ Hội thánh ra nhóm riêng tại nhà ông bà Truyền đạo Khoa. Ông bà Truyền đạo nộp đơn ra khỏi Hội thánh Tin Lành Việt Nam. Một thời gian sau, ông bà xin gia nhập trở lại, Tổng Liên Hội chấp thuận, nhưng tín hữu Hội thánh Cam Ranh không hoan nghênh.
Tôi phải trải qua nhiều sự khó khăn khác khi đi thăm viếng các Hội thánh hoặc khi giảng dạy. Vào một dịp lễ Giáng Sinh, tôi đến Hội thánh Phan Thiết, vừa bước xuống xe xích lô để vào nhà thờ thì có hai vị công an đến hỏi giấy tờ rồi không cho phép tôi chủ tọa buổi lễ. Tôi chỉ được phép cầu nguyện và chúc phước thôi. Một lần khác, từ Nha Trang đi ra Sông Cầu để thăm và giảng dạy. Sau khi trình giấy tờ, tôi lại bị trục xuất lên xe về ngay Nha Trang lúc hai giờ khuya Một buổi sáng kia, trên đường đi đến La Hai để hầu việc Chúa. Dọc đường, hai du kích kiếm tôi và bảo tôi phải đến đồn công an trình diện. Khi xe vừa đến nơi, tôi vào trình diện ngay và trưởng đồn không cho phép tôi giảng. Thế là lại lên đường trở về. Một lần, tôi được giấy phép đến thăm và giảng cho Hội thánh Tháp Chàm. Vừa đứng lên đọc Kinh thánh thì bị công an ở đó đến gọi đi trình diện và tịch thu giấy tờ. Hội thánh Tháp Chàm khẩn thiết cầu nguyện. Sau một tiếng đồng hồ làm việc, họ cho tôi về có cán bộ công an đi kèm vào nhà thờ. Tôi chỉ được phép ngồi dự lễ, thờ phượng Chúa.
Cùng một ngày chính quyền chiếm và quản lý Thánh Kinh Thần Học Viện, nhà thờ Vĩnh Phước tọa lạc gần đó và tư thất mục sư cũng bị niêm phong. Mục sư Huỳnh Sĩ Hùng phải đi học tập ba năm. Sau đó chúng tôi nộp đơn xin lại nhà thờ và chỉ một tuần sau nhà thờ được trao trả. Hội thánh nhóm họp theo sự điều hành của Địa Hạt và ban trị sự chi hội. Mười ba năm trong chức vụ chủ nhiệm Địa Hạt, giữa thời thế đổi thay, tôi cùng Ban Trị Sự Địa Hạt ngày đêm thiết tha cầu nguyện, nâng đỡ nhau trong chức vụ. Nhìn thấy bầy chiên của Chúa nhỏ bé, sống trong nghèo khó, thiếu thốn, lòng chúng tôi se thắt. Thật là một giai đoạn ngặt nghèo nên hầu như tất cả đều gần Chúa hơn. Chúng tôi hằng kêu xin với Cha Thiên Thượng: “Chúa ơi, xin chớ giấu mặt Ngài với Hội thánh của Chúa!”…

Phó Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang
Sau khi Viện trưởng Ông văn Huyên đắc cử Hội trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam, Ban Trị Sự Tổng Liên họp đề cử tôi làm chủ nhiệm kiêm Viện trưởng. Tôi nhất quyết từ chối vì không đủ sức. Sau đó vị Hội trưởng kiêm Viện trưởng yêu cầu tôi giữ chức Phó Viện trưởng để điều hành công việc nhà trường.
Chúng tôi gửi đơn đến chính quyền xin mở khóa học 1976-1977. Trong khi chờ đợi giấy phép thì chúng tôi nhận được nhiều thư hỏi về ngày khai giảng.
Trong phiên họp của cấp lãnh đạo nhà trường, vị giám học từ chối thảo thư thông báo về sự chờ đợi giấy phép nên tôi thảo bức thư thông báo và có trích câu Thánh Kinh I Cô-rinh-tô 15:58 xin các Hội thánh cầu nguyện hoặc kiêng ăn cầu nguyện cho vấn đề khai giảng khóa học 1976-1977. Sau khi thông báo được gửi đi thì công an mời tôi đến điều tra hai lần về thông báo này ở hai địa điểm khác nhau. Mỗi lần tôi được hỏi cung trên hai tiếng đồng hồ.
Tôi bị lên án là khích động quần chúng, xúi nhân dân tuyệt thực đấu tranh nên dùng chữ “hãy vững lòng, chớ rúng động…” như đã trích trong I Cô-rinh-tô 15:58. Tôi trả lời, giải thích, biện minh. Cuối cùng họ buộc tôi phải viết lại văn thư xin các Hội thánh ở vùng Nha Trang chỉ cầu nguyện mà đừng kiêng ăn. Tối hôm đó là tối thứ bảy, tôi phải đánh máy văn thư ngay lập tức rồi đạp xe đi đưa thư để sáng Chúa nhật thư được đọc giữa các Hội thánh. Chúa cũng thương tôi ốm yếu, gầy gò, đạp xe đi nhiều nơi thì mệt mỏi vô cùng nên Ngài cho tôi gặp Truyền đạo Trương văn Bồn ở Vĩnh Phước. Ông có xe Honda nên đã giúp chở tôi đi đến các Hội thánh mãi đến hơn 10 giờ tối mới về đến nhà. Đây là nỗi gian nan đầu tiên tôi trải qua trong chức vụ Phó Viện trưởng.
Thánh Kinh Thần Học Viện không được phép mở cửa khóa 1976-1977. Sau một thời gian dài chờ đợi, tôi bận rộn với công việc của Địa Hạt nên xin từ chức Phó Viện trưởng và được chấp thuận. Khi chính quyền chiếm và quản lý Thánh Kinh Thần Học Viện có văn thư mời tôi đến thảo luận, thư mời đề tên tôi với chức Phó Viện trưởng, tôi từ chối và trình cho họ biên bản của Viện trưởng thuận cho tôi từ chức trước đó. Họ bèn gửi một thư mời khác với chức vụ chủ nhiệm Địa Hạt đến dự kiến thôi. Các vị mục sư giám thị nội vụ và ngoại vụ đã phải ký những văn kiện chuyển giao Thánh Kinh Thần Học Viện. Chúng tôi giã từ Thánh Kinh Thần Học Viện với tấm lòng quặn thắt và chỉ biết trông chờ quyền năng tể trị của Đức Chúa Trời Ba Ngôi”…[12]
Tôi phải trích một chương dài như vậy vì muốn những người đi sau thấy được Những Người Đi Trước chịu biết bao là gian khổ, nhưng vẫn hết lòng giữ gìn công việc của Đức Chúa Trời, lo cho anh em trong Chúa từ người hầu việc Chúa đến bầy chiên, nhất là trong tuổi cao sức yếu như Cụ Mục sư Tín, thêm vào đó là sự xáo trộn do nhiều người bỏ chức vụ, bỏ bầy chiên ra đi nước ngoài, hoặc tìm theo ‘con đường 30-4’, nghĩa là lợi dụng thời thế để làm ‘người quốc doanh’. Biết như vậy, mới hiểu được những dòng thơ quyết tâm dâng mình cho Chúa mà Cụ Mục sư Tín đã cảm tác khi được Chúa kêu gọi, Mục sư Tín viết: “Ngày ngày học Lời Chúa cộng với những thì giờ thông công với Cha Thiên Thượng, tôi được sự cảm thúc bởi Thánh Linh đã bày tỏ đức tin và quyết tâm theo Chúa qua bài thơ:
MUỐN ĐẾN THIÊN ĐÀNG
Chập chùng ngọn núi hồ hùm beo,
Vứt bỏ ra đi quyết quyết trèo.
Lời Chúa làm gươm khi đến ải,
Sức Thần ấy gậy lúc qua đèo.
Quản chi cuộc thế đời đen bạc,
Đâu kể phù vân cảnh tẻo teo.
Phải trái mặc ai ai diễu cợt,
Thiên đàng muốn đến quyết trèo leo.
(1935)[13]
Học môn Thần học với Cụ Mục sư Tín có một điểm đặc biệt là mỗi khi có sinh viên nào thắc mắc hỏi một câu, thì y như rằng, Cụ Mục sư Tín sẽ trả lời: “Về hỏi Chúa”. Những khi ấy, cá nhân tôi cũng không vừa ý vì tuổi trẻ chúng tôi thích được tranh cãi. Nhưng về sau khi có dịp dạy Thần học cho anh em đi sau, đứng trước nhiều câu hỏi, tôi phải áp dụng cách trả lời của Mục sư Tín: “Về hỏi Chúa”, vậy mà thành công để mà nhớ ơn Thầy xưa.
Viết về Mục sư Phạm Xuân Tín, không thể nào không nhắc đến tình yêu thương giữa Cụ Mục sư Tín và Bà. Năm tôi học tốt nghiệp (Khóa 1970-1971), Bà bị bịnh rất nặng, chúng tôi trong Viện thiết tha cầu nguyện và cũng xót xa khi nhìn thấy vị Giáo sư của chúng tôi tuổi cao trước gánh nặng gia đình đè nặng, vừa lo dạy vừa lo công việc Hội thánh chung trong Tổng Liên Hội, vừa một tay săn sóc Bà, không tránh được vẻ mệt mỏi trên gương mặt. Cơn bịnh của Bà kéo khá dài, nhưng rồi Chúa đã chữa lành cho, và chúng tôi thấy được sự vui mừng trên vị Giáo sư của mình. Rồi khi tuổi đã cao trên 90, Cụ Mục sư bị đột quỵ, mắt lòa, tai điếc, phải ngồi xe lăn. Đây là lời các con của Cụ Mục sư viết về Ba Mẹ (Ông Bà Cụ Mục sư Phạm Xuân Tín): “Làm sao quên được hình ảnh ba ngồi trên xe lăn đến thăm mạ [Bà Cụ Mục sư bị đột quỵ não tháng 8 năm 2007], liệt nửa người bên trái, không tự ăn uống được). Bản thân tôi (con của Cụ) thầm nghĩ, ba đã già yếu, lại lòa mắt, vào thăm mạ làm chi, chỉ khổ thân. Nhưng ba đã nhất quyết thì chẳng ai cản được. Khi xe lăn đưa ba đến phòng bệnh, đến bên giường ba mò mẫm tìm tay mạ, rồi nói rất lớn tiếng (vì ba điếc nặng) giọng Huế đặc “Mạ Ly ơi, tôi vào thăm Mạ Ly đây”… rồi ba rổn rảng cầu nguyện cho mạ; cả phòng bệnh hai ba chục bệnh nhân và thân nhân im phăng phắc nghe. Sau khi ba về, mọi người đều khen hai Cụ đã già mà còn rất tình cảm[14]. Hãy nghe chính Cụ Mục sư ghi lại tâm tình của Hai Cụ: ‘Hôm nay, ngày 10 tháng 6 năm 1990, vợ tôi bảy mươi bốn tuổi, tôi đã bảy mươi tám tuổi, chúng tôi ôn lại những năm tháng đồng công cộng tác trong chức vụ, dâng lời cảm ta Chúa. Tôi nhớ lại những vần thơ cảm xúc vào ngày 8 tháng 5 năm 1985, khi đứng trước cây hoa hướng dương kỷ niệm năm thứ bốn mươi chín ngày thành hôn của chúng tôi:
Hai ta giống Hướng dương
Một gốc, một thiên phương,
Bốn chín năm hầu Chúa
Trăm năm nặng mối thương.
Truyền lời Chúa, xây Giáo hội,
Dạy Đạo dựng gia nương.
Khốn đốn trong công Thánh,
Phước lành ở Thương Đường.[15]
Có mối tình nào cùng sống cùng chết trong chức vụ hầu việc Chúa đẹp như vậy đâu! Ngày 5 tháng 1 năm 2008, Chúa đem Đầy Tớ của Chúa về trong tuổi 96; Mười ngày sau – ngày 15 tháng 1 năm 2008, Chúa lại đem Bà về cùng Ông với tuổi 92. Đáng học lắm thay! (Tôi mong thế hệ sau đọc quyển Hạt Giống của Cụ Mục sư Phạm Xuân Tín, xuất bản 2012, ghi chép từ các con của Cụ Mục sư, để biết thêm những công khó của Một Người Đi Trước chúng ta)
**********************************
 
 
7.    MỤC SƯ PHẠM VĂN NĂM

 
Mấy ngày nay tôi trăn trở nhiều khi muốn viết về Người Đi Trước Tôi là Cố Mục sư Phạm văn Năm và Bà, hình ảnh vị Thầy với gương mặt hiền hòa, mép miệng hơi co giật khi nói chuyện, đặc biệt là nói lắp nhẹ, và không thể quên được giọng cười ‘khà khà’ thân thiện của Mục sư Năm. Tôi cũng đã đọc vài lần quyển Dâng Trọn Cuộc Đời (Hồi Ký 55 năm phục vụ Chúa của Cố Mục sư Phạm văn Năm) do Bà xuất bản ngày 25 tháng 2 năm 1995. Như Bà đã viết trong Lời Phi Lộ quyển Dâng Trọn Cuộc Đời, “… Nội dung hồi ký “Dâng Trọn Cuộc Đời” này không có ý phô trương thành quả hay đề cao cá nhân người quá cố. Nhưng chỉ với mục đích ghi lại những ơn phước lớn lao, những việc lạ lùng mà Chúa đã đồng công với đầy tớ Ngài, trải qua 55 năm trong công trường thuộc linh vẫn vững bước đồng hành với Chúa, dù có những gian lao thách thức nhưng Chúa là Đấng thành tín, Ngài luôn nâng đỡ,  an ủi, vỗ về, giải cứu khỏi sa vào chước cám dỗ của ma quỉ, chu toàn nhiệm vụ đến cuối cùng…”, và trong Lời Nói Đầu quyển Hồi ký, Bà viết,   “Nói đến sự dâng mình hầu việc Chúa thì không ai nghĩ rằng mình có thể là người hoàn toàn nên mới được đặc ân phục vụ Chúa. Nhưng sự hầu việc Chúa, dấn thân vào con đường thuộc linh phải là người được ơn kêu gọi từ Đức Chúa Trời… Chúng tôi cảm biết mình là một đầy tớ hèn mọn của Chúa , không có gì để đáng ghi lại…”[16]
Nói đến Mục sư Phạm văn Năm là tôi nhớ đến chiếc xe hơi ‘thời Bảo Đại’ hiệu Renaul của Mục sư Năm. Tôi đã mở trang web để search hiệu xe nầy và không thể nào tìm thấy hình ảnh của chiếc quá cổ lổ sỉ đó hoặc giống từa tựa, nên tôi không thể mô tả lại cho mọi người hình dung được loại xe đó. Dĩ nhiên vào thập niên 60 mà đi được xe hơi là sang lắm rồi, nhưng chiếc xe của Mục sư Năm đã bạc màu, xuống cấp như không thể còn xuống cấp được nữa. Một lần khi tôi làm chủ tọa Hội thánh tại Túc trưng, Hội thánh mời Mục sư Năm giảng cho Hội thánh. Sau khi giảng xong, vì có việc cần, tôi được Mục sư Năm cho phép đi cùng chiếc xe hơi đó về Sàigòn. Mỗi lần xe chạy ngang qua những ổ gà trên đường, chiếc xe run lên dễ sợ, trời mưa lại tạt vào vì những cửa kính không kín, vừa lái xe, Mục sư Năm vừa nói: ‘Đó, thầy thấy chưa, xe nó run như muốn rã ra’, câu nói cứ được thốt lên mỗi khi gặp ổ gà. Cảm ơn Chúa, thế mà xe cứ chạy cứ chạy về đến Sàigòn. Lại còn mỗi thứ bảy, cũng với chiếc xe cà-tàng, Mục sư Năm với tư cách là Giáo sư dạy môn Chứng Đạo trong Thánh Kinh Thần Học Viện, lái xe chạy khắp nơi để đưa các sinh viên đến những vùng xa làm chứng về Chúa trong khu vực Nha Trang, như Lương sơn, Phước Hải… Cá nhân tôi với một ít anh em trong Thánh Kinh Thần Học Viện nhiều lần được tháp tùng cùng Mục sư Năm vào nhà giam tại Nha Trang sáng thứ bảy hằng tuần để giảng Tin Lành cho các phạm nhân, và cũng được Giáo sư phân công xuống Chẩn Y Viện Tin Lành nơi chân đồi Thánh Kinh Thần Học Viện để giảng Tin Lành cho những bịnh nhân với thân nhân đang chờ khám bịnh miễn phí. Nói chung là Mục sư rất quan tâm việc làm chứng về Chúa.
Cũng về chiếc xe cũ kỷ của Mục sư Phạm văn Năm. Có lần Ban Giáo sư Thánh Kinh Thần Học Viện họp vào buổi tối. Một số anh em sinh viên trong Viện hè nhau lén đẩy chiếc xe của Mục sư Năm vòng ra sau Viện. Khi họp Ban Giáo sư xong, các Giáo sư ra về, Mục sư Năm bước ra không thấy chiếc xe, ông dáo dác tìm rồi nói lớn: ‘Mấy thầy trả lại xe cho tôi về. Tôi biết mấy thầy giấu xe của tôi chớ không ai’. Mấy anh em lại hì hục đẩy chiếc xe lên trả lại, Mục sư Năm nói: ‘Tôi biết mà. Nó cũ mèm ai thèm lấy’, kèm theo giọng cười khà khà khi chiếc xe ra về, chẳng có la rầy, chẳng có phiền hà. Mục sư Năm biết đó là trò vui của mấy học trò rắn mắt. Tôi muốn thuật lại để nhớ đến Vị Thầy sống giản dị, thân cận với học trò, dù có nhiều người đùa nghịch dễ giận.
Mục sư phụ trách dạy môn Chứng Đạo, môn Thánh Kinh Thông Lãm, cũng dạy môn Hình Bóng, nhưng không hiểu sao đến niên khóa 1967-1968, Viện lại bỏ môn học nầy. Nói đến môn Thánh Kinh Thông Lãm, tôi nhớ những ngày lần đầu tiên bước chân vào Khóa Thánh Kinh Tiểu Học Đường tại Vĩnh Long. Khóa học chỉ một tháng, vừa khai giảng thì Mục sư Năm là một trong các vị Giáo sư của Khóa học đã ra lịnh tất cả các Khóa sinh Khóa học phải đọc xong toàn bộ Kinh thánh trong Khóa học. Thế là các Khóa sinh chúng tôi đọc Kinh thánh ngày đêm. Đến khi vào Thánh Kinh Thần Học Viện năm thứ nhất, vừa khai giảng xong thì gặp lại Vị Giáo sư vui tính chưa kịp nói gì thì nghe lịnh: Phải đọc xong Kinh thánh trong vòng một tuần! Thế là chúng tôi năm thứ nhất cố sức đọc bất kể ở đâu, khi đang làm gì, hễ có chút giờ rảnh thì đọc. Tôi không biết và cũng không nghe có ai bị phạt vì không đọc hết Kinh thánh theo lịnh của Mục sư Năm không, nhưng nhờ những cái lịnh khó thi hành đó mà chúng tôi dù muốn dù không đã đọc suốt Kinh thánh ít nhất hai lần.
Một điều phải nói đến môn học Chứng Đạo mà Mục sư Phạm văn Năm đã dạy chúng tôi. Nội dung môn học không có gì mới, trái lại có một điều ‘cũ’ tối cần mà lại bị những thế hệ đi sau bỏ quên hay bỏ qua (?), đó là Phép Lịch Sự Chứng Đạo. Tôi nói điều nầy vì từ khi được Mục sư Giáo sư dạy cho đến tận bây giờ ngồi viết lại những kỷ niệm của Vị Thầy Yêu Mến, tôi thật chưa nghe chưa thấy ai dạy Phép Lịch Sự nầy.
Phép Lịch Sự Chứng Đạo mà Mục sư Giáo sư Năm dạy chúng tôi theo những bước:
1.      Gõ cửa trước khi vào.
2.      Đang khi chờ mở cửa, không nhìn vào nhà qua khe cửa hoặc lỗ khóa.
3.      Chờ mời vào.
4.      Chờ mời ngồi
5.      Lựa chỗ ngồi
6.      Phải biết lúc ra về.
7.      Cần quay lại chào một lần và chỉ một lần trước khi rời nhà.
Có lẽ tại cái thời Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn đã chìm vào quá khứ, nên tôi chưa nghe ai dạy chứng đạo mà dạy Lễ Phép Chứng Đạo. Mới đây, có người thế hệ đi sau gởi điện thư (Email) cho tôi với nội dung nói đến một người đi sau chê trách Phương Pháp Truyền Giảng Cũ sẽ không kết quả, nhưng không biết cái cũ từ xa xưa có gì cần đổi mới, tôi không nghe nói cái Lễ khi Giảng Dạy, cái Lễ khi Chứng Đạo. Tiếc lắm thay!
Một kỷ niệm khác với Mục sư Phạm văn Năm. Sau khi tôi rời Hội thánh của Chúa tại Bến Cát (Bình Dương) về Sàigòn tạm chở bổ nhiệm nơi mới. Một hôm tôi được Mục sư Năm kêu ra Văn phòng Truyền Thanh Truyền Hình của Tổng Liên Hội tại số 155 đường Trần Hưng Đạo, Quận 1 – Sàigòn. Lúc ấy là Mùa Hè năm 1972, và Mục sư Năm không còn dạy ở Thánh Kinh Thần Học Viện, ông về Sàigòn giữ chức vụ Tổng Thơ Ký Ủy Ban Truyền Đạo Sâu Rộng Trung Ương kiêm Trưởng Ban Truyền Thanh Truyền Hình của Tổng Liên Hội. Mục sư Năm nói rằng ông muốn tôi về làm Trưởng Phòng Hành Chánh Ban Truyền Thanh Truyền Hình, Mục sư Nguyễn Lâm Hương hiện là Trưởng Phòng Kỹ thuật. Công việc của tôi là soạn chương trình phát thanh và phát hình, đồng thời trả lời thư thính giả và phụ trách Lớp Kinh thánh Hàm Thụ của Ban. Mục sư Năm biết vợ chồng tôi đang ở tạm nơi nhà của bà gia tôi, ông cho phép tôi đi tìm thuê nhà khoảng 15 ngàn một tháng. Điều Mục sư Năm yêu cầu tôi là làm một đơn xin Tổng Liên Hội cho về phụ trách công việc trên, lý do là hiện có một Truyền đạo được một vị Mục sư trong Tổng Liên Hội giới thiệu cho Mục sư Năm, nhưng ông không đồng ý. Tôi phải cảm ơn Mục sư Năm nhớ đến tôi, nhưng cho phép tôi không làm đơn, tôi thưa với Thầy tôi: ‘Mục sư Giáo sư dạy con và biết con có khả năng về tiếp Mục sư thì cho con làm; nếu con làm đơn mà mai sau con không làm trọn trách nhiệm thì mọi người sẽ trách Mục sư’. Không biết chuyện gì xảy ra sau đó, chỉ biết là Tổng Liên Hội đã cử một vị mục sư cao niên sắp hưu hạ về giữ công việc nầy.
Rồi đến ngày Chúa cho Tổng Liên Hội chấp thuận đề nghị của Địa Hạt Đông Nam Bộ thẩm vấn sát hạch tấn phong chức vụ Mục sư cho tôi cùng với 4 Truyền đạo khác. Buổi sáng ngày thẩm vấn, mỗi người trong năm Truyền đạo chúng tôi giảng mỗi người 15 phút. Buổi chiều, chúng tôi có mặt tại Văn phòng Địa Hạt Đông Nam Bộ số 633 đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2), quận 10 – Sàigòn. Ban Thẩm Vấn gồm bảy Vị Mục sư cao niên ngồi bên ngoài, còn năm Truyền đạo chúng tôi ngồi trong phòng nhỏ phía ngoài nhưng có thể nghe được những gì xảy ra nơi Ban Thẩm Vấn. Hai Truyền đạo được thẩm vấn trước mỗi người kéo dài không dưới một tiếng rưỡi đến gần hai tiếng đồng hồ, chúng tôi ngồi trong phòng nghe không rõ các Vị ThẩmVấn Viên hỏi gì nhưng nghe la rầy nhiều hơn. Chúng tôi đã run rồi mà nghe hai người bạn được thẩm vấn ttrước bị la rầy, làm chúng tôi lại lo sợ hơn. Tôi là người thứ ba được gọi ra. Thật bất ngờ, tôi vừa ngồi xuống thì Mục sư Năm đã kéo chiếc ghế có bánh xe đến sát bên tôi, ông quàng tay qua vai tôi và hỏi nhanh dồn dập: ‘Hôm nay thầy có đọc Kinh thánh không? Sách gì? Đoạn nào và câu nào?’ Thật lòng là tôi cũng giật mình chưa kịp phân định chuyện gì, chỉ biết cảm ơn Chúa là Ngài đã cho tôi bình tĩnh lạ để trả lời ngay câu hỏi của Vị Giáo sư từng dạy môn Thánh Kinh Thông Lãm cho tôi. Nghe tôi nói sách, đoạn, câu xong, Mục sư Năm lại hỏi tiếp liền: ‘Câu đó nói gì?’ Tiếp theo, Mục sư Năm cất giọng cười ‘khà khà’ cố hữu không lẫn vào ai được.
Nói đến Mục sư Phạm văn Năm mà không nói đến Bà thì là một sự thiếu sót không thể tha thứ. Tôi đã gặp Bà Mục sư Phạm văn Năm tại Thánh Kinh Tiểu Học Đường Vĩnh Long, khi được ngồi học môn “Tám Cột Trụ của Sự Cứu Rỗi” do Bà dạy. Bà có một giọng nói với âm hưởng rõ và sắc khiến Khóa sinh khó ngủ gục trong môn Thần học khô khan, thỉnh thoảng Bà chen vào tiếng cười thoải mái nên Khóa sinh vui lây và tự nhiên có sự kính mến.
Khi vào Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang, tôi lại có cơ hội gặp Bà mỗi khi vào Thư viện của Viện. Bà Mục sư Năm được Ban Giáo sư Viện giao trách nhiệm là Quản Thủ Thư Viện với vài chục ngàn quyển sách, vì Bà đã được Tổng Liên Hội cử đi học môn Quản Thủ Thư Viện tại Ấn Độ. Sau khi Bà học xong trở về nước, chúng tôi được nghe Bà thuật lại những việc không ngờ trong sinh hoạt của người Ấn Độ. Bà cho biết vì đa số người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo thờ con bò cái làm nữ thần, nên họ rất tôn quý con bò cái (tôi nghĩ buồn cho con bò đực giống như người đàn ông ở nước Mỹ chỉ được đứng hạng năm sau trẻ con, người già, phụ nữ và con chó – TTS). Sự tôn trọng đó được thể hiện như khi bò cái đi lang thang ngoài chợ ăn rau quả hay vật gi của ai thì người đó không dám đuổi mà còn vui mừng; mỗi khi con bò cái ị ra phân thì họ giành nhau hốt lấy trét lên mình, hứng nước tiểu của con bò cái rửa mặt, coi là vinh dự. Đặc biệt vì Bà Mục sư là phụ nữ nên được nghe những câu chuyện về số phận bị khinh khi của người phụ nữ tại Ấn Độ, họ rất quý con trai nhưng lại khinh khi con gái. Do đó, có Bà Pandita Ramabai, một phụ nữ Ấn Độ tin Chúa Jêsus Christ đã bị gia đình bên chồng và gia đình ruột thịt từ bỏ, Bà Ramabai đã đứng lên thành lập những cơ sở từ thiện cứu giúp những phụ nữ bị xã hội Ấn Độ ruồng bỏ. Chúng ta hãy đọc bài làm chứng của Bà Ramabai mà Bà Mục sư Phạm văn Năm dịch: “Trong khi tra cứu kinh Dharma Shastras, tôi (bà Ramabai – TTS) biết được đôi điều trước kia tôi chưa hề nghe đến và hầu hết mọi sự đều tỏ ra mâu thuẫn. Điều gì trong sách nầy tôn trọng thì sách kia lại nói là bất công. Khi đọc sách Mahabharata tôi thấy chép như vầy: “Mỗi tập kinh Veda đều khác nhau”. Kinh Smrities tức là luật pháp thánh cũng không giống nhau nữa. Chỗ bí ẩn đó là sự mầu nhiệm của tôn giáo: “Chỉ nên noi theo các bậc vĩ nhân”. Tôi đã thấy rõ nhiều sự thật, nhưng chỉ có 2 điều mà tất cả các sách đều nói đến – kinh Dharma Shastras là những bản Thánh nhạc, những bài văn thi, những thầy giảng kinh thuộc hàng cao cấp quí phái đồng ý - rằng “hễ là phụ nữ thì dầu thuộc trong từng lớp nào trong xã hội, thượng lưu hay hạ đẳng cũng đều xấu cả, hết sức xấu xa, xấu hơn ma quỉ nữa; họ bất khiết, giả dối nên không thể thành Moksha như nam giới. Họ chỉ có hy vọng được phóng thích khỏi tiền căn ấy bằng cách đầu thai nhiều kiếp, hằng triệu kiếp, chịu đau khổ không thể tả và phải thờ lạy chồng họ. Người chồng là một vị thần riêng của phụ nữ, ngoài ra họ không có phép thờ thần nào khác, vị thần ấy có thể là một đại phạm nhơn xấu xa nhứt mang nhiều án phạt nhưng NGƯỜI ẤY VẪN LÀ VỊ THẦN CỦA NÀNG và nàng buộc phải thờ lạy người. Nàng không hy vọng được nhận vào Svarga, là chỗ ở của các vị thần thánh nếu không làm vui lòng chồng. Còn giả như nàng làm đẹp lòng chồng trong mọi sự, nàng sẽ được nhận vào đó như một kẻ nô lệ của chồng, ở đó người vợ sẽ hầu hạ thần ấy và sẽ ở trong số các vợ mà vị thần ấy biếu cho chồng, tùy theo công đức của vợ.
Muốn đạt đến đời sống cao hơn để thi hành trọn nghĩa vụ đạo đức hầu trở thành Moksha, họ phải được đầu thai làm người nam thuộc hàng thượng lưu trí thức, để học kinh Veda và kinh Vedanta, cùng hiểu rõ sự thật về Bà-la-môn và sự tổng hợp của đạo ấy. Có điều lạ của tôn giáo nầy là nếu người đờn bà muốn đạt đến bực Moksha, người ấy phải bỏ tất cả ý mình để thờ lạy chồng cách hết lòng, chỉ thờ lạy chồng mà thôi không được ham thích gì trong đời ngoài việc làm tôi mọi cho chồng trọn đời. Phụ nữ không được học kinh Veda và Vedanta nên không biết gì về các kinh ấy, và vì thế chẳng biết rõ thần Bà-la-môn, thì cũng không được hưởng gì trong đạo ấy cả, lẽ dĩ nhiên không một người nữ nào được đạt đến Moksha”.[17]
Chúng tôi cũng được nghe Bà Mục sư Năm kể chuyện cách người Ấn Độ ăn cơm, thường có món cà-ri, họ dùng lá cây to làm dĩa và ăn bằng tay vốc từng nắm cơm chấm cà-ri ăn rất gọn gàng, rất tiếc, chúng tôi không được nhìn thấy Bà Mục sư Năm thực hiện cách ăn nầy.
Cảm ơn Chúa những năm học tại Thánh Kinh Thần Học Viện, Bà Mục sư Năm gọi tôi đến và giao cho tôi công việc vẽ số thư mục trên gáy sách và xếp sách vào đúng vị trí trên kệ. Công việc được bà trả mỗi giờ là 20 đồng, nhờ đó tôi vừa có dịp đọc sách vừa có tiền để đóng học phí như Viện qui định. Công việc của Bà Mục sư Năm nhìn thì không có gì quan trọng, nhưng thực chất đòi hỏi phải kiên nhẫn đọc bao nhiêu là sách, dĩ nhiên không cần phải đọc toàn bộ quyển sách, nhưng phải nắm bắt sách đó thuộc loại nào để đánh mã số thư mục. Những sách Việt ngữ trong Thư Viện rất ít, ngoài những sách giải nghĩa Kinh thánh và sách tham khảo có trong Hội thánh chung, đa phần là tạp chí, tuần báo ngoài xã hội. Phần còn lại chiếm độ 90 phần trăm là tiếng Anh, một ít là Pháp ngữ. Bà nói với tôi: Thư viện thường được các ân nhân nước ngoài tặng sách, nhưng những sách từ Đức đến đều loại bỏ vì nơi quốc gia đó quan niệm Thần học tự do quá, không nên cho lên kệ. Chỉ rất tiếc là các Sinh viên của Viện ít người quan tâm đến đọc sách nên ít vào mượn, thêm một khiếm khuyết nữa là vốn ngoại ngữ của đa số các sinh viên trong Viện yếu kém mà sách ngoại ngữ thì lại chiếm đa số.
Chúa ban cho Bà Mục sư ân tứ về ngoại ngữ, ngoài tiếng người dân tộc cao nguyên mà ông bà Mục sư từng phụ trách việc truyền giáo cho họ (tiếng Kơ Ho), Anh ngữ, Bà cũng được học về tiếng Hi-bá-lai, do đó Bà đã viết một loạt bài về Sự Dạy Dỗ Thuộc Linh từ Mẫu Tự Hi-bá-lai, đã đăng một số bài trên Thánh Kinh Nguyệt San của Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Sau cùng Ông Bà Mục sư rời khỏi nước trước biến cố 30-4-1975. Tôi muốn trích vài đoạn do chính ông bà ghi lại biến cố đó trong quyển “Dâng Trọn Cuộc Đời”, hồi ký 55 năm phục vụ Chúa mà Bà đã cho ra mắt tại California ngày 25 tháng 2 năm 1995:
“Ngày 25 tháng 3 năm 1975, con trai thứ 7 của chúng tôi là Phạm Quang Khiêm, phi công máy bay vận tải C.130 của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đến văn phòng (Văn phòng làm việc của Mục sư Năm tại Trụ sở Tổng Liên Hội số 155 Trần Hưng Đạo quận 1 – Sàigòn – TTS) nói với chúng tôi rằng nó định đưa gia đình ra nước ngoài bằng máy bay, hỏi chúng tôi có đi không? Chúng tôi nghe nói như vậy thì giựt mình, không biết có biến cố gì xảy ra đây? (Lúc đó Ban Mê Thuột đã mất, Nha Trang, Đà Nẵng đồng bào di tản vào Sàigòn quá nhiều. Một số các Mục sư Truyền Đạo từ miền Trung và Trung Bắc vào lánh nạn quá đông. Họ ở rải rác trong các Hội thánh vùng Thủ Đô). Khi đó, có vài tín hữu tại văn phòng nên chúng tôi không nói gì cả, chỉ nói rằng nếu có đi thì chỉ đi vòng vòng thôi. Trong trí chúng tôi lại nghĩ rằng chắc chánh phủ ngầm ra lịnh như vậy, chớ nếu có thông báo chính thức thì máy bay đâu đủ để chở tất cả quân nhân và gia đình? Tuy nghe vậy, nhưng vài hôm sau cũng không chú ý đến nữa, về nhà cứ cầu nguyện tùy theo ý Chúa và sự dẫn dắt của Ngài, thời cuộc ra sao thì ra, chúng tôi không biết lo hay chuẩn bị gì hết.
(Bỏ bớt một đoạn)
Từ đây, ba anh nó (đều là phi công) lo tinh toán để ra đi… Chúng đi Honda lên Long Thành xem xét một sân bay nhà binh bỏ hoang tìm địa điểm để máy bay có thể đáp xuống rước gia đình và thân nhân mà không bị phát hiện. Chúng hoạch định chương trình đồng thời cũng dò la xem coi ngày nào có máy bay đi công tác mà có thể lấy đi được. Phần lớn quân nhân ai cũng muốn lấy máy bay đưa gia đình ra ngoại quốc, nhưng không ai dám thực hiện, vì nghĩ rằng nếu ra đi mà nước Việt Nam mất thì không có gì đáng ngại, ngược lại, nếu Việt Nam không mất thì tất nhiên cả đám sẽ bị dẫn độ về để trị tội.
Phần chúng tôi chẳng hay biết về mưu đồ của chúng nó…
Sáng sớm ngày thứ 5, tức là ngày 3-4-1975, chúng tôi nhóm cầu nguyện nơi nhà thờ Bàn Cờ, chúng tôi không nghe ai nói gì về sự di tản cả. Đến 9 giờ chúng tôi vẫn đến văn phòng làm việc…
Chúng tôi làm việc đến 1 giờ trưa,… thì Sophie (con gái của Mục sư Năm – TTS) cho hay là Khiêm đến nói với nó rằng chiều nay lối 2 giờ sẽ tập trung nơi nhà ông bà Trần Phương (nhạc gia của Khiêm, tức là sui gia của chúng tôi) để lên Long Thành, máy bay sẽ đáp tại đó rước đi. Chúng tôi nghe qua rất bàng hoàng, không biết liệu làm sao đây… Khi ngồi vào bàn ăn cũng không thể ăn nổi nửa chén cơm, lật đật chạy về nhà quơ vội vài bộ đồ, bỏ vào trong bao vải, tôi xách cái cặp da bỏ quyển Kinh thánh và cái Radio nhỏ vào. Nhà tôi mở tủ áo lấy vài chiếc áo dài cũ, lấy cho tôi 2 bộ đồ ngủ, nhưng vì vội vã nên lấy quần nầy, áo kia, không đúng bộ gì cả. Còn phần nhà tôi thì mở tủ thấy cái hộp đựng phim có một ít tiền Thụy Sĩ mà lúc trước bà đi Thụy Sĩ mang về. Bà cầm cái ống nhựa lúc lắc vài cái rồi quăng trở lại tủ (số tiền nếu mang theo thì độ cũng được 10 đôla, 30 quan Thụy Sĩ) Bà chụp lấy cái hộp đựng tăm xỉa răng mà bà đã mua mấy ngày trước đó. Bà mang theo bó tăm xỉa răng mà bỏ lại 10 đôla!... Chúng tôi vội vã mang đồ đạc lên xe Renaul nhỏ chạy vào nhà ông bà Trần Phương. Đến nơi đã thấy có nhiều người tại đó…
Đúng 4 giờ chiều ngày 3-4-1975, nhận được điện thoại Khiêm gọi về từ phi trường cho biết phải lên đường ngay. Tất cả 6, 7 chiếc xe hơi đủ cỡ, đủ loại đều chuẩn bị lên đường, tổng cộng 53 người… 3 người trong phi hành đoàn là những bạn hữu… cộng là 56 người…Trước giờ khởi hành tất cả đều họp lại cầu nguyện, xin Chúa dẫn dắt vì đi như ông Áp-ra-ham, đi mà không biết mình đi đâu! Tôi cầu nguyện, ai nấy đều thổn thức, không biết lần ra đi cách táo bạo nầy sẽ ra sao? Có bị dẫn độ về không vì lúc ấy Sàigòn vẫn còn rộn rịp. Nếu bị bắt, bị dẫn độ thì sẽ bị hình phạt như thế nào! Nét lo âu hiện rõ trên nét mặt mỗi người. Dầu vậy cũng cương quyết ra đi vì tình hình ngày càng bi đát, giặc đến nơi rồi sẽ chạy đi đâu nếu không ra khỏi nước? Các con chúng tôi nói rằng: “Nếu Ba Má không đi thì chúng con cũng phải đánh liều ra đi,…” vì vậy chúng tôi cũng phải buộc lòng ra đi, mà ra đi rất sớm thì hậu quả sẽ khó lường được đến mức độ nào! Đoàn xe khởi hành nhắm sân bay Long Thành trực chỉ. Khi gần đến thấy có chiếc máy bay C.130 bay lượn trên vòm trời, mọi người đều hồi hộp không biết có phải là máy bay đến đón mình hay không! Khi vào đến sân bay thì máy bay đã đáp xuống rồi! Máy vẫn nổ, bụi bay mù mịt. Ai nấy lật đật xuống xe, tuôn đồ đạc vào trong máy bay. Khi hầu hết người lên máy bay thì thấy có một xe Jeep nhà binh chở 5 anh lính Biệt động quân từ đâu chạy đến. Nhà tôi còn đứng dưới đất, 2 tay xách 2 gói quần áo, cất tiếng kêu lớn: “Mình ơi! lính tới rồi kia kìa!” và nhà tôi muốn lui bước trở lại xe. Nhưng Minh là con trai lớn của chúng tôi chạy lại giựt 2 gói đồ và nói: “Má lên máy bay lẹ đi, ai nấy đều lên hết rồi sao má còn đứng đây?” Vừa nói nó vừa kéo nhà tôi lên máy bay. Khi nhà tôi đi từ phía sau ra chưa tới phía trước thì máy bay vụt cất cánh, nhà tôi té nhào xuống sàn máy bay rồi nằm luôn không ngồi dậy nữa! Tôi dòm lại phía sau thấy có một nhân viên phi hành đoàn, tai mang ống nghe, hai tay vịn vào vai hai anh lính Biệt động quân nói gì đó không biết. Tôi hỏi con tôi tại sao nhân viên kia không đi? Nó nói vì anh ấy còn vợ con ở nhà nên anh ta không đi. Anh ấy nói cho mấy anh lính biết là có một tấn rưỡi gạo từ máy bay thả xuống để các anh nầy mang về và dặn họ đến tối hãy báo cho Bộ Tư Lịnh biết là có chiếc máy bay C.130 đã rời khỏi nước….
Máy bay đã bay xa khỏi Sàigòn…
Với bao nhiêu lời dị nghị không phải về việc ra đi mà là ‘cách’ ra đi của Ông Bà Mục sư Năm, tôi trích ghi lại với tinh thần của một người Á-Đông là “Tôn Sư Trọng Đạo”, tôi nhớ có người nói: ‘Đời tôi để lịch sử xử’.[18]
************************
 
 
8.    MỤC SƯ ĐOÀN VĂN MIÊNG.
 
 
Hầu hết những người tin Chúa tại Việt Nam quen thuộc với Cụ Phó hơn là tên tộc của Cụ Mục sư là Đoàn văn Miêng, nhất là chữ Miêng lại có ‘g’. Tôi cứ theo lệ xưng gọi Cụ Mục sư Đoàn văn Miêng trong phần viết về Những Người Đi Trước Tôi nầy là Cụ Phó.
Đa số quen gọi Cụ Phó là vì sau biến cố 30-4-1975, dưới áp lực của Chính quyền chế độ mới không đồng ý Mục sư Đoàn văn Miêng giữ chức vụ Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam, lại đúng vào lúc nhiệm kỳ hai Hội Đồng Tổng Liên Hội của Mục sư Miêng vừa mãn, do đó Ban Trị Sự Tổng Liên Hội đã họp để ứng phó áp lực của Chính quyền. Kết quả buổi họp là Ban Trị Sự Tổng Liên Hội sẽ giới thiệu Cụ Mục sư Ông văn Huyên ứng cử chức vụ Hội Trưởng trong Hội Đồng và Cụ Mục sư Vũ văn Cư đương chức Phó Hội Trưởng sẽ tự từ chức vì bịnh ung thư xương hàm trầm trọng, mở đường cho Mục sư Đoàn văn Miêng ứng cử vào chức vụ Phó Hội Trưởng thay Mục sư Cư. Kết quả Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1976 đã bầu Mục sư Đoàn văn Miêng vừa mãn nhiệm chức vụ Hội Trưởng, được đắc cử chức vụ Phó Hội Trưởng, từ lúc đó Mục sư Đoàn văn Miêng được Hội thánh chung biết đến là Cụ Phó.
Thật ra Mục sư Đoàn văn Miêng đã được Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1960 bầu vào chức vụ Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam, thay cho Mục sư Lê văn Thái là vị Hội Trưởng vừa mãn nhiệm quyết định không tái ứng cử vì muốn thế hệ đồng vắng đến lúc nhường lại cho thế hệ Đất Hứa. Và năm 1960, Mục sư Đoàn văn Miêng đắc cử Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Đức Chúa Trời đã yêu thương Hội thánh Tin Lành Việt Nam nên đã ban cho Hội thánh của Chúa một người giảng dạy Kinh thánh cách đặc biệt, rõ ràng, dễ hiểu với những ý tưởng dạy dỗ không thể đoán trước được, thích hợp mọi lứa tuổi. Rất tiếc tôi không được nghe Mục sư Miêng dạy thư Rô-ma như đã được nghe nhiều người thuật lại, điều đáng tiếc hơn nữa là những người thuật lại chỉ thuật rằng ‘rất hay, rất sâu nhiệm’, nhưng những người thuật đó không diễn lại cho lớp người hậu bối như tôi nếm được hay làm sao, sâu nhiệm làm sao, xin mượn câu thơ của Nguyễn Du chế lại:
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe qua, nghe lại, (chẳng) biết hay thế nào.
Rốt lại chỉ biết là qua cách giảng giải Kinh thánh mà Mục sư Đoàn văn Miêng đã được Trường Kinh thánh Đà Nẵng mời về dạy.
Tôi đã được nghe:
Mục sư Miêng trực tiếp thuật lại những ngày Mục sư làm chủ tọa Hội thánh tại Tiên Thủy (Bến Tre), vì tình hình loạn lạc, nhiều vụ cướp giết thường xảy ra, nên tín đồ ở vùng sâu vùng xa đem của cải vàng bạc họ có được gởi nơi Mục sư chủ tọa. Bất ngờ, một đêm khuya, bọn cướp xông vào tư thất chủ tọa bắt Mục sư Miêng trói lại đánh đập rồi hỏi Mục sư Miêng: “Vàng bạc của ông để đâu?” Mục sư Miêng dù bị đánh đập vẫn trả lời: “Tôi không có vàng bạc gì cả”. Bọn cướp tra khảo nhiều lần không được nên rút lui. Sáng hôm sau, tín đồ nghe tin kéo ra nhà thờ thăm Mục sư Miêng và nói: “Sao Mục sư đã bị đánh đập như vậy, chúng hỏi thì Mục ư cứ chỉ cho chúng thì đâu đến nỗi”. Mục sư Miêng trả lời: “Bọn cướp hỏi vàng bạc của tôi giấu ở đâu, tôi đâu có vàng bạc gì. Nếu bọn cướp hỏi ‘vàng bạc của tín đổ gởi giấu ở đâu’ thì tôi đã chỉ rồi”.
Năm 1971, tôi từ Bến Cát có dịp về Sàigòn ghé lại thăm một Mục sư chủ tọa Hội thánh tại Sàigòn, được biết có một nhóm xưng là “Nhóm Mục sư Truyền Đạo Trẻ” mà vị Mục sư nầy là Trưởng Nhóm, đã cùng với một mục sư và một Truyền đạo vào Văn Phòng Tổng Liên Hội để chất vấn Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng. Buổi chất vấn được thâu băng, và vị Mục sư Trưởng Nhóm đã cho tôi được nghe cuộn băng đó. Có nhiều vấn đề được nêu ra trong buổi chất vấn, nói chung là những bất mãn hoặc bất đồng về cách làm việc của Mục sư Đoàn văn Miêng, trong đó có vấn đề ‘Một Nhà Có Ba Hội Trưởng”. Lý do chất vấn được nêu ra là vì Mục sư Miêng đương chức Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam, lại có con trai là Đoàn văn Sĩ làm HộiTrưởng Hội Osborn Foundation, mà Mục sư Osborn là tà giáo lợi dụng việc cung cấp xe cùng những phương tiện giảng lưu động như máy phóng thanh, phát điện, máy chiếu phim, tiền bạc, để chiếu những phim của Mục sư Osborn giảng chữa bịnh, phát những sách báo của Hội Osborn in những bài giảng chữa bịnh của Mục sư Osborn. Toàn bộ phương tiện và chi phí điều hành, lương hướng của xe giảng lưu động Osborn Foundation đều do hội đó cung cấp. Nhóm chất vấn không đồng ý việc Mục sư Miêng là Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành lại giới thiệu con của ông làm việc với một Hội tà giáo, nhất là vì uy tín của Mục sư Miêng nên Hội Osborn nhận Đoàn văn Sĩ làm Hội Trưởng Hội nầy tại Việt Nam. Thêm vào đó, Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng đã lấy uy tín của ông để giới thiệu cho con trai là Đoàn Trung Tín một Truyền đạo sinh của Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang, đáng lẽ phải trở về Viện tiếp tục học thì được Mục sư Johann Lee Tổng Thơ Ký Hội Truyền Giảng Tin Lành Cho Mỗi Gia Đình nhận làm Hội Trưởng của Hội đó tại Việt Nam, phá vỡ qui định của Thánh Kinh Thần Học Viện.
Trước những chất vấn gay gắt như vậy, Mục sư Miêng đã trả lời – qua giọng nói, tôi nhận thấy Mục sư rất bình tỉnh để trả lời -  rằng Mục sư Osborn quen biết Đoàn văn Sĩ khi Sĩ còn đang học tại London; còn việc Hội đó có tà giáo hay không thì Sĩ đã lớn rồi tự biết quyết định. Về việc giới thiệu Đoàn Trung Tín thì Mục sư cho biết: Lúc bấy giờ Ủy Ban Truyền Đạo Sâu Rộng Trung Ương của Tổng Liên Hội đang họp trong tư thất của Mục sư Hội Trưởng với Mục sư Johann Lee. Mục sư Lee tỏ ý muốn có một mục sư Việt Nam trực tiếp làm việc với Mục sư Lee, thì một Mục sư trong Ủy Ban đã giới thiệu Truyền đạo sinh Đoàn Trung Tín. Mục sư Lee hỏi Truyền đạo sinh Tín là ai? Ở đâu? Mục sư đó nói rõ Tín là Truyền đạo sinh, con của Mục sư Miêng và đang ở trong nhà Mục sư Miêng. Theo lời Mục sư Miêng thì Mục sư đó muốn giới thiệu Tín để gây chú ý mọi người về chính mình, do Tín đang là Truyền đạo sinh cần về Thánh Kinh Thần Học Viện học tiếp, không ngờ khi tiếp xúc với Tín thì Mục sư Lee chấp nhận Tín làm việc cho Hội của ông tại Việt Nam. Sự việc diễn biến ngoài ý muốn nầy khiến Ủy Ban Truyền Đạo Sâu Rộng Trung Ương phải linh động giới thiệu Mục sư đó đi Đài Loan học về Truyền Thanh Truyền Hình 6 tháng. Mục sư Miêng khẳng định ông không giới thiệu Tín. Cuối cùng, khi Nhóm Chất Vấn cho rằng từ trước đến nay, Hội thánh chưa bao giờ có một Nhà Ba Hội Trưởng, Mục sư Miêng đã trả lời một câu không còn có thể bàn cãi nữa: “Trước chưa có, bây giờ có đã sao”. Thuật lãnh đạo bình tỉnh.
Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 41 đã họp lại vào ngày 15 đến 17 tháng 6 ngay sau biến cố lịch sử 30-4-1975 của Đất Nước, tại nhà thờ số 155 Trần Hưng Đạo. Tình hình tại Sàigòn rất nghiêm trọng, đang ở dưới sự điều hành của Chánh quyền mới được gọi là Quân Quản (Quân đội quản lý), dân chúng Sàigòn đang hoang mang lo sợ, dĩ nhiên Hội thánh cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, nhất là trước những người được gọi là 30-4 lợi dụng thời cơ chính trị để dựa hơi Chánh quyền mới gây bất lợi cho xã hội cũng như Hội thánh tại địa phương và Hội thánh chung. Hội Đồng Tổng Liên Hội được phép Chánh quyền mới cho họp lại tại nhà thờ Sàigòn. Việc đầu tiên trước giờ khai mạc là tất cả Đại Biểu Hội Đồng được Chánh quyên mời dự buổi nói chuyện của Đại Diện Chánh quyền tại rạp Thống Nhất (Nhà Xổ Số Kiến Thiết). Những Đại Biểu Hội Đồng đến dự buổi nói chuyện đều có phiếu mời và phải ghi tên rõ ràng để kiểm soát. Trong buổi nói chuyện, Đại Diện Chánh quyền khen ngợi ông Nguyễn Châu Ân là một tín đồ Tin Lành tốt đã tham gia chống Mỹ. Trong phần đáp từ, Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng đại diện Hội thánh chung nói: “Tôi tin rằng Hội thánh Tin Lành Việt Nam không chỉ một Nguyễn Châu Ân, mà có nhiều Nguyễn Châu Ân”.
Rồi Hội Đồng được khai mạc với sự giám sát chặt chẽ của Chánh quyền và với sự hoang mang của Đại Biểu không biết tình hình sẽ ra sao. Như đã có ý định trước, một số Đại Biểu đã đứng lên với sự hung hăng gay gắt chất vấn Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng mấy điều chính:
* Việc trốn chạy ra nước ngoài không thành của Mục sư Miêng vào những ngày cuối của chế độ Sàigòn cũ, họ cho rằng Mục sư Đoàn văn Miêng là Hội Trưởng mà muốn bỏ Hội thánh ra đi, như vậy có còn xứng đáng với chức vụ Hội Trưởng nữa không?
* Họ nói Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp đã để lại cho Mục sư Miêng vàng và đô-la, bây giờ số tiền đó ở đâu?
Dĩ nhiên, những lời chất vấn gay gắt nầy là từ những nhân vật có liên hệ với Chánh quyền mới và với dụng ý không tốt đối với Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng. Trong lúc những người tố cáo thay nhau phát biểu lớn tiếng, Mục sư Miêng ngồi trên ghế chủ tọa Hội Đồng im lặng không nói gì. Khi những lời tố cáo lắng dịu, Mục sư Miêng đã đứng lên với giọng nói khoan hòa, bình tỉnh tự nhiên trả lời hai điểm chính:
(1)   Mục sư Miêng cho biết rằng vào tháng 3 năm 1975, Mục sư Hội Trưởng Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp có cho ông biết tình hình Đất Nước và muốn ông đi khỏi Việt Nam, có thể đến Pháp để lo cho cộng đồng Việt Nam tại đó. Mục sư Miêng đã từ chối, nhưng với sự thuyết phục của Hội Truyền Giáo, Mục sư đã đồng ý ra đi với điều kiện phải có 65 người trong gia đình của ông cùng đi. Hội Truyền Giáo hẹn trả lời sau vì số người quá khả năng của Hội Truyền Giáo. Đến gần cuối tháng 4-1975, thì Hội Truyền Giáo báo tin cho Mục sư Miêng biết là Hội Hoàn Cầu Khải Tượng (World Vision) bằng lòng trả tiền vé máy bay cho 65 người trong gia đình của Mục sư Miêng. Tuy nhiên, Mục sư Miêng đã từ chối ra đi vì chờ đợi quá lâu và ông không muốn đi nữa. Mục sư Miêng nói ngày 29-4-1975, ông chỉ đưa một người bạn đến Tòa Đại Sứ Mỹ để người đó ra đi, cá nhân ông chỉ ngồi trong xe cho đến khi người Bạn đó vào hẳn trong Tòa Đại Sứ (những người chất vấn thì cho rằng Mục sư Miêng ngồi chờ người đó vào trong Tòa Đại Sứ liên hệ và hứa sẽ trở ra đón Mục sư Miêng vào nhưng vì tình hình khẩn cấp khiến người đó có vào mà không có trở ra [?]).
(2)   Việc tiền và vàng của Hội Truyền Giáo. Mục sư Miêng cho biết: Hội Truyền Giáo có giao cho ông 1.000 đô-la và ông đã gởi Ngân Hàng Nhà Nước, có biên nhận.
Sau khi trả lời chất vấn, Mục sư Miêng đã nhẹ nhàng tuyên bố: “Xin Hội Đồng cứ bỏ phiếu tín nhiệm tôi (Mục sư Miêng) với chức vụ Hội Trưởng”. Và Hội Đồng đã tín nhiệm Mục sư Đoàn văn Miêng tiếp tục chức vụ Hội Trưởng Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Phải nói là vai trò lãnh đạo Hội thánh hoàn toàn khác với vai trò lãnh đạo các Hội đoàn hoặc quốc gia, đặc biệt khi phải ứng phó với những tình huống mà tổ phụ chúng ta chưa từng đi qua, nhưng Chúa cho Mục sư Miêng đã có sự khôn ngoan cần thiết để giữ vững Hội thánh.
Tôi được nghe Mục sư Miêng nói với tôi tình hình trước cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hai tôn giáo lớn tại Việt Nam là Công Giáo La Mã với Phật Giáo đang sôi sục và va chạm. Chánh quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất lưu ý Hội thánh Tin Lành Việt Nam xem ngã về bên nào. Do đó, hằng ngày có những Mật Vụ, những người lạ qua lại hoặc lởn vởn trước tư thất của Mục sư Hội Trưởng Đoàn văn Miêng.
Tôi thuật lại những sự kiện trên để Người Người Đi Sau nhìn thấy được thuật lãnh đạo của Những Người Đi Trước thể hiện qua những giờ phút căng thẳng tột cùng, vì những giờ phút đó có thể gặp bất lợi, nguy hiểm vô cùng cho cá nhân và công việc Chúa chung.
Mục sư Miêng cũng tâm sự rằng: Đầu năm 1975, có một Mục sư người Đại Hàn (cách gọi quốc gia nầy lúc đó, sau nầy gọi là Hàn quốc) đến gặp Mục sư Hội Trưởng hỏi: “Hiện nay có tin Giáo hội Công giáo La Mã và Phật giáo đều lên kế hoạch di cư đến nước khác khi Cộng sản vào Miền Nam. Mục sư Hội Trưởng có chương trình di cư nào cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam?”. Mục sư Hội Trưởng Miêng đã trả lời: “Nếu phải đưa Hội thánh ra đi thì đi đâu? Tôi (Mục sư Miêng) đã theo Lời Chúa trong Sáng thế ký đoạn 12 câu 1-3 để xin Chúa ba điều trong tình hình nầy: (1) Xin Chúa ban cho Hội thánh của Chúa tại Việt Nam nước Việt Nam nầy; (2) Xin Chúa ban cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam của Chúa trở thành một Hội thánh lớn trên đất nước Việt Nam; và  (3) Xin Chúa ban cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam làm Nguồn Phước cho các dân tộc trên thế giới”. Và Mục sư Miêng nói với vị Mục sư người Hàn quốc: Chúng tôi không có kế hoạch ra đi.
Mỗi khi có dịp vào Văn Phòng của Mục sư Đoàn văn Miêng, tôi nhìn thấy những hàng sách tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh. Tôi biết rằng Mục sư Miêng là người Đọc Sách nên những bài giảng của Mục sư có những ý tưởng không ngờ được dù với những câu Kinh thánh quen thuộc. Cá nhân tôi đã được trực tiếp nghe những lời nói như những những câu danh ngôn mà Mục sư Miêng đã dùng từ những sách ông đã đọc và tìm được để khuyên dạy tôi. Thí dụ:
1.      Mục sư Miêng đã nói với tôi về vấn đề Đạo Đức và Vĩ Đại. Mục sư nói, có những người vĩ đại mà không đạo đức như Hitler; cũng có những người đạo đức mà không vĩ đại như Y-sác; nhưng Áp-ra-ham là người vừa vĩ đại và vừa đạo đức.
2.      Mục sư Miêng nói: Làm được mọi sự là khó, nhưng nín chịu mọi sự càng khó hơn, như Phaolô đã dạy trong thư Cô-lô-se 1:10-11. Chí lý thay!
Hình ảnh của Mục sư Miêng khi đứng giảng luôn ẩn hiện trong tâm trí tôi một tư thế đứng khoan hòa, trang trọng, giọng nói rõ ràng; câu nói giản dị bình dân ai cũng hiểu được. Khi viết đến điều nầy, tôi nhớ lời khuyên của Tổng Thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ mà quyển Thiên Tài Lãnh đạo Abraham Lincoln của Donald T. Phillips đã ghi: Thực vậy, ông (Abraham Lincoln) đã thành công khi gọt dũa các bài diễn văn của mình sao cho thật dễ hiểu với mọi người. Có một lần, Lincoln tư vấn cho đồng nghiệp trong ngành luật của mình, William Herndon, về việc này: ‘Này Billy, đừng bắn quá cao – hãy nhắm thấp hơn và người bình dân sẽ hiểu anh. Họ chính là những người mà anh muốn vươn tới – ít nhất họ là những người mà anh phải vươn tới. Những con người có giáo dục và tài giỏi rồi cũng sẽ hiểu anh tôi. Nếu anh nhắm quá cao thì ý nghĩ của anh sẽ bay ngang qua đầu của quần chúng và chỉ trúng những kẻ không cần phải bắn trúng’[19] Tôi cũng tâm đắc để chia sẻ cách giảng dạy bình dân nầy khi có dịp hướng dẫn Phương Pháp Giảng cho một số Người Đi Sau: ‘Cần nói đủ lời thôi, phải biết dùng lời nói gợi lên cảm nghĩ, giúp cho người nghe suy nghĩ, đừng suy nghĩ thay người nghe, nghĩa là phải biết tiết kiệm lời nói, đừng thao thao bất tuyệt, đừng sợ không nói hết, đừng sợ người nghe không hiểu, đừng dành quyền suy nghĩ của người nghe. Tiếng đàn hay là ở dư âm, lời nói hay là ở vắn tắt mà hậu ý thâm trầm, man mác. Lời nói hay có khi bóng bẩy, có khi súc tích gọn gàng, có khi cân phân nhạc điệu… Nhưng hay nhất vẫn là Sáng Sủa - Giản Dị - Tự Nhiên. Sáng sủa là nói lên, người nghe hiểu liền; muốn sáng sủa thì phải Giản dị; muốn Giản dị thì phải Tự nhiên. Muốn Sáng sủa, Giản dị, và Tự nhiên, thì phải gọt dũa. Gọt dũa khéo để đừng ai thấy. Gọt dũa cho đúng chính tả, đúng văn phạm…
Phải nói Chúa cho Hội thánh Tin Lành Việt Nam 100 năm mới có một người giảng và dạy Lời Chúa như Mục sư Đoàn văn Miêng, người nghe ở trình độ nào cũng hiểu được. Vì cớ đó nên Mục sư Miêng đã được Hội thánh chung giao việc soạn bài học Trường Chúa Nhật, những đêm Mục sư Miêng dạy Kinh thánh tại nhà thờ Sàigòn – dù tình thế khó khăn kể cả khó khăn phương tiện di chuyển, nhưng các con cái Chúa cũng rất hăng say vượt những quãng đường xa về học từ năm nầy sang năm khác. Chỉ một đáng tiếc là Mục sư Miêng đã không viết để lại quyển sách nào, ngoài những tài liệu mà Mục sư đã soạn cho việc dạy Kinh thánh.

 
9.    MỤC SƯ TRẦN XUÂN HỈ

 
Đặc điểm nổi bật nhất khiến mọi người nhận ra Mục sư Trần Xuân Hỉ giữa số đông là mái tóc càng về già càng bạc trắng, nói theo văn hóa Việt Nam, Cụ Mục sư giống như bậc thần tiên. Tôi không biết lúc còn trẻ, mái tóc của Cụ Mục sư đen như thế nào, nhưng lúc tôi được Chúa cho biết Mục sư Trần Xuân Hỉ là lúc mái tóc của Cụ Mục sư đã hoa râm rồi.
Nhìn dáng người của Cụ Mục sư Hỉ, người chung quanh có thể thấy bộc lộ Cụ là một người khó tánh, nghiêm khắc, vì Cụ Mục sư dáng người to dù không cao lớn lắm, miệng rộng, giọng nói dường như đang nghiến răng. Tuy nhiên, khi nghe Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ giảng, ngôn từ của Cụ Mục sư rất tự nhiên, giản dị như nói chuyện, kể cả khi Cụ Mục sư cầu nguyện. Tôi nhớ một lần Cụ Mục sư Hỉ giảng cho Ban Mục sư Truyền đạo Sàigòn vào buổi tối tại nhà thờ Nguyễn Tri Phương. Buổi tối hôm ấy là sau một ngày nhóm họp từ sáng, trưa, không thể tránh khỏi sự mệt mỏi hiện ra trên gương mặt nhiều người, trong đó có tôi, bây giờ ngồi trong nhà thờ tiếp tục nghe giảng tâm trạng của tôi rất lo lắng e rằng khó theo dõi, nếu ‘ngủ gục’ vì mệt mỏi lại càng hổ thẹn. Đang mơ mơ màng màng sau khi Cụ Mục sư giảng được mấy phút theo sách I Samuên đoạn 1, thình lình Cụ đổi giọng: “Nè các bạn, tôi nghĩ Ên-ca-na kẹt nghe mấy bạn!”… Sự thay đổi ngôn từ và giọng nói làm người nghe chúng tôi tỉnh lại vì sự dí dỏm của một diễn giả cao niên. Thật là tài tình với cách giảng bình dân như thế, không phải ai cũng sử dụng được kỹ thuật như vậy.
Kỹ thuật đổi giọng giữa chừng như vậy tôi được gặp lại trong lần được nghe Mục sư Hunter giảng cho Hội Đồng Tổng Liên Hội nhóm họp tại nhà thờ Sàigòn. Buổi giảng ấy vào lúc 3 giờ chiều với cái nóng oi bức của Sàigòn, số người lại đông, nhà thờ không có máy lạnh, tất cả đều đã qua một buổi sáng dài khai mạc với nhiều nghi thức, nên bước vào giờ nhóm chiều ai cũg mỏi mệt. Thêm nữa, bài giảng lại phải qua thông dịch nên dài thêm. Đang nghe giảng với đôi mắt lờ đờ, thình lình Hội Đồng nghe Mục sư Hunter diễn giả hỏi: “Quý Vị có biết tại sao đa số người Mỹ bị sói đầu không?” Câu hỏi không dính líu bài giảng, lại đưa mọi cặp mắt hướng về những hàng ghế đầu nơi có nhiều Giáo sĩ Mỹ đang ngồi có nhiều người bị sói, nhất là Giáo sĩ Hội Trưởng Revelle là người sói nặng nhất. Ngay lúc đó, diễn gaỉ nói tiếp: “Lý do vì ở Mỹ, người nghe giảng thường hay ngủ gục nên lời giảng bay sớt sớt ngang đầu, khiên đa số người Mỹ bị sói”. Một từ ngữ đồng thanh vang lên: "Ồ!” kèm theo những nụ cười. Cơn buồn ngủ tan biến, bài giảng lại tiếp tục. Tài tình lắm!
Cầu nguyện cũng vậy. Người tin Chúa luôn được dạy rằng cần nhắm mắt khi cầu nguyện để không bị phân tâm. Đúng như vậy! Tôi có đọc tiểu sử của Nhà Truyền Giáo cũng là nhà thám hiểm Phi châu tên David Livingstone. Tiểu sử của ông ghi lại rằng, một lần David Livingstone ở trong rừng rậm Phi châu, ông quỳ gối nhắm mắt cầu nguyện với Chúa. Lúc đó có một số thổ dân rình rập tìm cách giết ông. Bất thình lình đám thổ dân nhìn thấy một con rắn độc khá to bò đến bên David Livingstone. Những thổ dân thấy rõ chắc chắn David Livingstone sẽ bị rắn cắn chết, khỏi cần họ ra tay. Đám thổ dân hồi hộp trố mắt theo dõi đường bò của con rắn độc, họ thấy con rắn bò chung quanh nơi chân của David Livingstone rồi bò đi. Quá ngạc nhiên, và với đầu óc mê tín dị đoan của họ, những thổ dân nầy lật đật chạy ra quỳ chung quanh David Livingstone, tôn ông là thần, giống như dân thành Lít-trơ thấy Phao-lô chữa lành người liệt chân thì tôn Phao-lô làm thần vậy (Công vụ 14:8-18). Khi David Livingstone hỏi nguyên nhân thì nghe đám thổ dân thuật lại việc con rắn không dám cắn ông, David Livngstone cảm ơn Chúa đã dạy ông cầu nguyện thì nhắm mắt tập trung tấm lòng trò chuyện với Chúa để không bị chi phối. David Livingstone biết rằng nếu ông mở mắt lúc cầu nguyện chắn chắn sẽ thấy con rắn, việc đó sẽ khiến ông có phản ứng, và phản ứng đó sẽ khiến con rắn độc cắn ông, hoặc đám thổ dân sẽ giết ông. Thật Chúa đã dùng việc nhắm mắt cầu nguyện để giải cứu đầy tớ của Chúa.
Vậy mà, một tối Chúa nhật ngày 30 tháng 4 năm 1978, tôi từ Túc trưng xuống giảng cho Ban Thiếu Niên và Thiếu Nhi thuộc Hội thánh Chúa tại Bàn Cờ, Quận 10 Sàigòn. Vì đường xa nên tôi xuống trễ, tới nơi thì Hội thánh đã bắt đầu nhóm trong nhà thờ ở tầng trên. Tôi theo cầu thang bước lên thì chợt nghe tiếng cầu nguyện của Cụ Mục sư Hỉ, tôi nhìn thấy Cụ Mục sư đang đứng trước bàn giữa nhà thờ trên tòa giảng, mái tóc bạc trắng, mặt ngước nhìn về phía góc trái nơi nhóm lại, đặc biệt là đôi mắt của Cụ Mục sư không đeo kính đang mở ra nhìn chăm chú vào góc trái đó, và tôi nghe Cụ Mục sư nói như đang trò chuyện với Đấng Vô Hình Hiện Diện: “Thưa Chúa, chúng tôi đây là tôi tớ Chúa…” Cụ vừa nói vừa gật gật đầu rất tự nhiên. Ôi, đáng phục làm sao! Một bậc thánh cầu nguyện!
Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ đã cho tôi nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong chức vụ. Cụ Mục sư kể rằng khi Cụ Mục sư còn trẻ theo học tại Trường Kinh thánh ở Đà Nẵng mà thời đó gọi là Tourance. một hôm bắt đầu giờ ăn, gần cả trăm người cúi đầu nghe một người trong Trường cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn. Rủi thay người ấy không biết vì lý nào lại cầu nguyện dài dòng, mọi người thì đang đói bụng, Cụ Mục sư Hỉ nói: “Tôi tức mình, nên đứng dậy vỗ tay ba cái và nói lớn: A-men anh em”, rồi Mục sư Hỉ tự vỗ tay xong ngồi xuống cầm đũa ăn.
Có lẽ đó là người duy nhất trong Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam dám làm như vậy. Thật can đảm. Tôi không biết ngày xưa, thế hệ Những Người Đi Trước như Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ khi vào Trường Kinh thánh có được nhắc nhở những điều cần trong sinh hoạt thường ngày lúc đang học chung tại Trường Kinh thánh không, nhưng riêng thế hệ của chúng tôi, khi vào Thánh Kinh Thần Học Viện tại Nha Trang, những ngày đầu tiên đã được Mục sư Phạm văn Năm là Giám thị của Viện dắt đến từng nơi cần để chỉ dạy. Mục sư Năm đã dắt chúng tôi đến phòng vệ sinh dạy chúng tôi cách giựt nước sau khi vệ sinh. Phương tiện thời đó là chiếc chậu nước treo cao trên tường, có sợi dây xích nhỏ thòng xuống, cuối sợi dây là quả nắm dài để kéo chiết phao chận nước trong chậu. Mục sư Năm bảo một anh em chúng tôi giựt nước, rồi phải rầy anh em đó vì khi kéo dây đã không kéo thẳng mà kéo xiên một phía; Mục sư Năm giải thích: Kéo như vậy sẽ làm lệch chiếc phao chận bên trong chậu khiến sau đó nước rò rĩ liên tục. Chuyện tưởng không có gì mà làm ầm ĩ, nhưng thật quan trọng biết bao, vì đa số sinh viên chúng tôi thời đó từ nhỏ tới lớn có bao giờ được sử dụng phương tiện vệ sinh ‘hiện đại’ như vậy đâu, thêm vào đó vấn đề nước trong Thánh Kinh Thần Học Viện rất quan trọng, do Việc được xây dựng trên một ngọn đồi sát bờ biển Hòn Chồng Nha Trang, nước sử dụng trong Viện được bơm từ giếng đào sâu (nghe nói) tới 25 mét dưới chân đồi – không phải là 25 mét từ chân đồi lên Viện, mà là đào xuống 25 mét tính từ mặt đất nơi chân đồi bơm lên trên những nơi chứa nước trên mái các dãy phòng, sau đó mới chảy vào những ống dẫn đến các nơi cần. Nước trên mái được dùng làm mát nơi ở, nhưng như thế lại quá cao, tốn nhiều điện cho máy bơm, hệ thống bơm nước giếng nầy được chạy bằng năng lượng gió biển, và điện. Vì vậy, chúng tôi không được lãng phí nước sử dụng trong mọi sinh hoạt. Sau đó lên phòng họp chung, Mục sư Phạm văn Năm với trách nhiệm Ban Giáo sư giao căn dặn nhiều điều như không được thức quá 10 giờ đêm, Viện sẽ cúp điện, đặc biệt là nhắc chúng tôi việc cầu nguyện trước khi ăn tập thể là phải cầu nguyện ngắn, gọn, chỉ cầu nguyện cho việc ăn, nếu có gì khẩn cấp lắm thì mới nhắc đến, ngoài ra không được cầu nguyện từ ‘Sáng thế ký đến Khải huyền’. Vậy mà cũng không tránh khỏi những lúc phải nói là vấp phạm như trường hợp Cụ Mục sư Hỉ đã thuật kể.
Cụ Mục sư Hỉ cũng thuật một lần khi đang học ở Trường Kinh thánh, một dịp tình cờ đi ngang qua sân Trường, Cụ Mục sư cùng vài người chung Trường tình cờ thấy hai ba Giáo sĩ Mỹ đang đứng nói chuyện với nhau. Vào thập niên 30, 40 của thế kỷ 20 đa số còn rất xa lạ với giọng người Mỹ nói, hầu hết chỉ quen nghe giọng người Pháp, thấy lạ, những  học sinh Trường Kinh thánh nầy đứng lại nhìn và nghe, dù không hiểu gì cả. Lập tức, họ bị đuổi đi và sau đó bị mời lên Văn Phòng Trường để quở trách vì dám nghe lén. Có lẽ điều nầy làm Cụ có ấn tượng không vui với các Giáo sĩ nước ngoài, nên trong chức vụ lãnh đạo Hội thánh chung, Cụ Mục sư Hỉ ít thân thiện với các Giáo sĩ. Âu cũng là một kinh nghiệm.
Lúc Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ làm chủ tọa Hội thánh của Chúa tại Thủ đức (Sàigòn), tôi có một người bạn cùng tâm tình dạy Thiếu nhi trong Hội thánh, tôi có dịp từ Cần-thơ lên Thủ-đức thăm anh chị của tôi để từ giã anh chị trước khi tôi đi học Thánh Kinh Thần Học Viện. Tôi cùng anh bạn nầy đến thăm Cụ Mục sư Hỉ, vì Cụ Mục sư biết Ba của tôi vốn từng học với Cụ Mục sư một năm ở Trường Kinh thánh Đà nẵng. Khi trò chuyện, anh bạn của tôi là tín đồ thuộc Hội thánh tại Thủ đức thưa với Cụ Mục sư: “Thưa Mục sư, con đã hứa nguyện dâng mình cho Chúa và cũng muốn đi học Thánh Kinh Thần Học Viện Khóa nầy, nhưng Ba của con mới qua đời để lại căn nhà cho con, nếu con đi học Thánh Kinh Thần Học Viện thì không biết giải quyết căn nhà thế nào, không ai trông coi”. Mục sư Trần Xuân Hỉ nói với người bạn của tôi cách rất tự nhiên nhưng đầy cương quyết như ra lịnh: "Tôi bảo thầy về đốt căn nhà đó đi. Thầy mà để căn nhà đó, một ngày nào thầy bỏ chức vụ trở về đó”. Anh bạn của tôi không đốt nhà như Mục sư Hỉ dạy và sau khi ra Trường tập sự thì lỗi lầm bị cách chức phải trở về căn nhà đó. Nguy hiểm thay với người cầm cày còn ngó lại phía sau! Kinh nghiệm thay một người như Ê-li-sê đã giết bò chẻ cày để theo Ê-li! (I Vua 19:19-21).
Trong những ngày tuổi đã cao, Mục sư Trần Xuân Hỉ lúc ấy đang là chủ tọa Hội thánh của Chúa tại Thủ Đức bị bịnh rất nặng, Bệnh Viện đã từ chối điều trị, người nhà phải đưa Cụ Mục sư về lại tư thất của Hội thánh. Tôi được có dịp đến thăm Cụ Mục sư. Buớc vào phòng khách của Tư thất, hình ảnh thê thảm nhất là Cụ Mục sư đang ngồi trên chiếc ghế xếp, có một cái mùng (màn ngủ theo người Miền Bắc gọi) treo trên phía đầu phủ xuống, da mặt vàng úng. Tôi ngồi xuống bên cạnh và nghe Cụ Mục sư nói  với giọng khều khào: “Tôi không nằm được, nên phải ngồi trên chiếc ghế xếp nầy sáng đêm, che cái mùng để muỗi khỏi cắn. Thầy (chỉ tôi) có biết tại sao tôi (Cụ Mục sư) bị bịnh nặng gần chết mấy tháng nay mà không xin nghỉ, cứ làm chủ tọa Hội thánh không? Tại vì tôi thương Nhà Tôi suốt cuộc đời theo tôi hầu việc Chúa, nay đến già mà tôi không có được một cái chòi cho Nhà Tôi ở. Tôi xin nghỉ thì Nhà Tôi ở đâu? Vì vậy, tôi cứ phải bám Hội thánh làm chủ tọa để có chỗ ở cho Nhà Tôi, dù tôi không giúp gì được cho Hội thánh…” Rồi Cụ thuật kể rằng: Khi Cụ làm chủ tọa Hội thánh của Chúa tại Vĩnh Long, lương có 12 đồng, muốn mua cho Cụ Bà một cái khăn choàng hầu mà giá tới 6 đồng, Cụ đành im lặng không dám mua. Một tối thứ bảy đi thăm viếng tín đồ về, mắc mưa ướt hết, Cụ Bà phải hong khô quần áo cho Chồng để sáng mai Chúa Nhật có mà mặc. Đôi giày bố của Cụ Mục sư bằng vải cũng bị ướt, Cụ Bà đem để trên một cái thùng thiếc đựng dầu lửa hiệu Ngôi Sao (thời đó người ta đựng dầu lửa thắp đèn trong một cái thùng bằng thiếc thể tích 20 lít), rồi đặt cái thùng thiếc trên bếp lò củi chỉ còn than tàn, dụng ý là sấy cho đôi giày vải được khô nhanh. Sáng hôm sau, khi chuẩn bị cho việc nhóm lại thờ phượng Chúa, thì ôi thôi, phần đế giày bằng cao-su sau một đêm sấy nóng đã chảy hết ra trên thùng thiếc, khi dở giày lên thì phần trên đôi giày còn trong khi phần cao-su đế giày đã dính hết trên thùng thiếc. Dù vậy, Cụ Mục sư cũng đành phải xỏ chân vào đôi giày không còn đế đó để tiếp tục lo cho Hội thánh.
Cá nhân tôi - Mục sư TTS – nhớ một câu nói: Lịch sử chỉ ghi những chiến công oai hùng của các Tướng theo câu Nhất Tướng Anh Hùng Vạn Cốt Khô. Trong số những ‘vạn cốt khô’ trên công trường thuộc linh Hội thánh Tin Lành Việt Nam có dấu vết đôi giày vải không đế của một Người Đi Trước Tôi!
 
 
10.           MỤC SƯ PHAN VĂN TRANH


 
Nếu đặc điểm của Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ để nhận ra Cụ qua vóc dáng là mái tóc bạc trắng rất đẹp, thì đặc điểm nhận ra Cụ Mục sư Phan văn Tranh là mái đầu hói tóc, vầng trán đã cao càng cao thêm.
Mục sư Phan văn Tranh xuất thân từ Trà-ôn, một vùng quê kề cận sông Hậu, nhưng là nơi Tin Lành in dấu sớm ở miền Nam. Dáng người của Mục sư nhìn vào tự nhiên người đối diện sẽ cảm nhận vẻ nhàn nhã, ngay cả cách nói chuyện khoan hòa, cử chỉ không thấy có lúc nào phải vội vã. Chính những nét đặc sắc nầy thể hiện qua chức vụ lãnh đạo và giảng dạy của Mục sư Phan văn Tranh.
Một lần tôi đến Văn phòng Địa Hạt Đông Nam Bộ có việc cần của Hội thánh, đang lúc có một Truyền đạo ngồi bên cạnh chiếc bàn làm việc của Mục sư Tranh trình bày một việc gì đó với vẻ không vui, nói hơi lớn tiếng. Mục sư Phan văn Tranh là Chủ Nhiệm Địa Hạt. Có thể nói Địa Hạt Miền Đông Nam Bộ là Địa Hạt lớn nhất trong 7 Hạt của Hội thánh Tin Lành Việt Nam trước năm 1975:
1.      Địa Hạt Trung Trung Bộ là từ Quảng Trị xuống đến Qui Nhơn.
2.      Địa Hạt Nam Trung Bộ là từ Phú Yên vào đến Bình Tuy (BìnhThuận ngày nay).
3.      Địa Hạt Đông Nam Bộ là từ Biên Hòa đến Long An.
4.      Địa Hạt Trung Nam Bộ còn gọi là Địa Hạt Tiền Giang từ Mỹ tho đến Vĩnh Long.
5.      Địa Hạt Tây Nam Bộ còn gọi là Địa Hạt Hậu Giang từ Cần Thơ xuống đến Cà-mau.
6.      Nam Thượng Hạt với Đà-lạt làm Trung Tâm dành cho các Hội thánh người Dân tộc nói và hiểu được tiếng Kơ Ho.
7.      Trung Thượng Hạt với Ban-mê-thuột là Trung Tâm dành cho các Hội thánh người Dân tộc nói và hiểu tiếng Ra-đê.
Sở dĩ tôi nói Địa Hạt Đông Nam Bộ được xem là Hạt lớn nhất vì Sàigòn nằm trong Hạt nầy, có nhiều Mục sư Truyền đạo và đa số các Hội thánh có nền tài chánh mạnh. Thêm nữa, Mục sư Phan văn Tranh là một trong những Vị Mục sư được Hội thánh chung dành cho sự kính trọng cao.
Tôi ghi lại một trường hợp để thấy uy tín của Mục sư Phan văn Tranh giữa Hội thánh chung. Hội Đồng Tổng Liên Hội họp tại nhà thờ Thánh Kinh Thần Học Viện, trong giờ xét sổ trước giờ Bầu cử Ban Trị Tổng Liên Hội, hai Soát sổ viên của Hội Đồng sau khi trình bày sổ sách, đã chất vấn một vị Mục sư lãnh đạo một Hạt việc tài chánh không minh bạch, dù số tiền thất thoát không nhiều lắm. Trong lúc bầu không khí chất vấn căng thẳng vì hai Soát sổ viên từng nổi tiếng xưa rày là khó tánh, còn người bị chất vấn thì có vẻ lúng túng, Hội Đồng biết người bị chất vấn lúng túng không phải vì thâm lạm mà vì làm sai nguyên tắc khiến gây hiểu lầm, ngay khi đó, Mục sư Phan văn Tranh đã đứng lên nói vài lời đề nghị cách giải quyết cho Hội Đồng. Cảm ơn Chúa, với tiếng nói ngắn gọn của Mục sư Tranh, hai Soát sổ viên dù khó tánh cũng đồng ý và người bị chất vấn cũng thấy được lỗi của chính mình để hứa chấn chỉnh.
Lý do tôi dài dòng nói đến các Địa Hạt và sự kính trọng của Hội thánh chung dành cho Mục sư Phan văn Tranh là vì đang lúc ngồi đợi, tôi để ý thấy vẻ mặt của Mục sư Tranh không có gì thay đổi, vẫn khoan hòa, nụ cười nhẹ nhàng vốn có xưa nay vẫn nở, dù Mục sư Chủ Nhiệm đang nghe những lời không vui của một Truyền đạo người và chức vụ vẫn còn quá trẻ. Tôi chỉ nghe tiếng của Mục sư Tranh lúc thì ậm ừ, lúc thì hỏi lại vài lời, còn lại đều lắng nghe. Sau cùng, khi Thầy Truyền đạo nói xong, Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh nhìn Thầy và nhẹ nhàng nói:”Thầy nhờ ơn Chúa bỏ qua đi”, tiếp theo là những lời cầu nguyện ngắn. Thầy Truyền đạo bước ra, Mục sư Tranh lại tiếp tôi, Cụ Mục sư hoàn toàn không nhắc tiếng nào về chuyện vừa rồi, và tôi cũng không nghe Thầy Truyền đạo đó bị trù dập hoặc gặp rắc rối nào từ lãnh đạo.
Bây giờ đến cách giảng dạy của Mục sư Phan văn Tranh. Với quan niệm Đông phương, người nghe muốn tìm một Người Giảng Đạo phải ở thế tĩnh, đạo mạo, trầm tư theo Đạo Gia Lão Trang, thì đó là Mục sư Phan văn Tranh. Qua Cụ Mục sư Tranh, người nghe sẽ nhìn thấy một Diễn giả với:
·         Dáng đứng thẳng, không hò hét, không đập bàn, không chạy qua chạy lại, hoàn toàn đứng yên một chỗ.
·         Mặt luôn hướng về phía trước, chỉ thỉnh thoảng xoay qua lại nhẹ.
·         Tay trái cầm quyển Kinh thánh khép lại cặp sát người – cá nhân tôi chưa từng thấy Mục sư Tranh mở ra lúc giảng.
·         Giọng nói như đang nói chuyện tâm tình với một vài cá nhân hơn là giảng cho một hội chúng đông người.
·         Âm lượng cũng không lớn lắm, chỉ vừa cho một phòng nhóm hơn là một nhà thờ lớn.
Tuy nhiên, đặc điểm là Mục sư Tranh dùng từ ngữ rất thân mật, hiền hòa. Mục sư Trần Xuân Hỉ thì dùng từ “các bạn”, còn Mục sư Phan văn Tranh thì dùng từ “chúng mình”. Nhưng đừng nghỉ rằng dễ ngủ khi nghe Mục sư Tranh giảng, ngoài việc được ơn Chúa, người nghe còn tìm thấy sự thân mật ngọt ngào của một người thân, nói như Phaolô là một người Vú Nuôi hơn là một người vị Sư quở trách; sự nhẹ nhàng an ủi của một Điều Dưỡng viên chuyên môn hơn là một Bác sĩ. Nét mặt Mục sư Tranh khi giảng luôn biểu lộ niềm vui, cảm thông. Có lẽ do từ ngữ quá gần gũi, nghe giọng nói ngọt ngào không quở trách, nên người nghe khó ngủ khi Mục sư Tranh giảng.
Dù dáng vẻ và tư cách hiền hòa, nhưng Mục sư Tranh có những ý tưởng thâm trầm khi lãnh đạo.
(1)   Câu nói của Mục sư Tranh làm tôi nhớ mãi đến giờ mỗi lần cầm một phong bì thư lên: “Muốn làm người phải học dán tem”, Cụ Mục sư nói phải tập dán tem bên góc phải để Bưu điện đóng dấu. Thật là chí lý trong một việc làm tưởng rằng quá nhỏ.
(2)   Có một vị ngang hàng tuổi tác với Mục sư Tranh đã phàn nàn với Mục sư Tranh việc con trai của vị nầy ra Trường không được bổ nhiệm phục vụ ở Sàigòn, dù vị đó đã vận động nhiều cách. Sau khi phàn nàn, trách móc do vị nầy cho rằng Mục sư Tranh đã không giúp đỡ, vị nầy nói: “Tôi biết trong mắt của Anh (Mục sư Tranh) không bao giờ có tôi”. Thật bất ngờ, Mục sư Tranh trả lời ngay: “Đúng rồi, trong mắt tôi làm sao có Anh. Trong mắt tôi chỉ có Nhà Tôi thôi”.
(3)   Sau năm 1975, một người tên Nguyễn Thành Long dựa vào sự thân quen với một người bà con bên vợ giữ chức vụ cao cấp trong Chánh quyền mới, đã xướng lên việc lập Tin Lành Thống Nhất, lấy thế lực đời nầy muốn ép các hệ phái Tin Lành nhập lại và điều quan trọng là y sẽ đứng đầu tổ chức nầy. Đã có những hệ phái Tin Lành rải rác đó đây ủng hộ. Nhân một dịp, Hội thánh tại Túc trưng chúng tôi mời Cụ Mục sư Tranh từ Sàigòn lên giảng bồi linh cho Hội thánh, lúc đang đứng nơi cửa nhà thờ, tôi hỏi Cụ Mục sư về việc ông Nguyễn Thành Long đòi sáp nhập các hệ phái Tin Lành? Cụ Mục sư Tranh cười nói: “Nhập chớ. Nhưng họ nhập với mình, chứ mình làm sao nhập với họ?”. Thật bản lãnh khi đối đầu thế lực đời nầy trong tay những Giu-đa! Không dễ đâu bạn, nhất là thời kỳ đó, mắt tôi đã thấy có nhà thờ treo bảng Tin Lành Thống Nhất và dành nơi làm Văn Phòng cho Nguyễn Thành Long.
Cụ Mục sư Phan văn Tranh là một người lãnh đạo theo tình của người cha, không phải một người cầm quyền. Cá nhân tôi trải nghiệm cái tình đó.
Năm 1972, tôi rời Bến Cát về Sàigòn chờ bổ nhiệm, khi đến Văn Phòng Địa Hạt gặp Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh. Mục sư Tranh nói: “Vì sức khỏe của Thầy, tôi muốn Thầy ở lại Sàigòn, không cho Thầy đi xa nữa” Vì lúc đó tôi ốm yếu lắm, nghe mà ấm lòng làm sao, thì ra Lãnh đạo vẫn quan tâm sức khỏe của mình.
Ngày 22 tháng 6 năm 1972, tôi được Địa Hạt bổ nhiệm đến Túc trưng lo công việc Chúa. Tôi chưa biết Túc trưng là ở đâu và cũng chưa biết sẽ đến đó bằng cách nào. Buổi sáng, tôi ra Văn Phòng xin ý kiến Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh. Cụ Mục sư bảo tôi đến nhà thờ Sàigòn nói với một vị mục sư hiện có xe hơi của Giáo hội, nói là Cụ Mục sư Tranh nhờ giúp chở giúp đồ đạc của tôi đến Túc trưng. Vị mục sư đó vô cùng ngạc nhiên và nói: “Cái nầy lạ à nghen, xưa nay Địa Hạt đâu có giúp ai chở đồ đến nhiệm sở. Thầy nói lại với Mục sư Tranh Chủ Nhiệm là tôi bận không giúp được”. Khi nghe tôi trình lại, Cụ Mục sư Tranh lắc đầu buồn, nghĩ một chút, Cụ nói: "Thầy ra bến xe Petrus Ký, thuê một xe chở, hỏi bao nhiêu tiền, TÔI TRẢ!” Nhờ đó Chúa cho tôi đến Túc trưng hầu việc Chúa 9 năm.
Một điều không hiểu được là vào cuối đời của Cụ Mục sư Phan văn Tranh, đồng lúc với tình trạng của Cụ Mục sư Hội Trưởng Ông văn Huyên bị mù sau nhiều lần giải phẫu cũng không khỏi; còn Cụ Mục sư Phó Hội Trưởng Đoàn văn Miêng lại bị lãng tai hầu như không còn nghe được; thì Cụ Mục sư Phan văn Tranh bị lãng trí không nhớ gì cả. Câu hỏi được trình lên cho Đức Chúa Trời và Chúa Jêsus Christ là Chủ của Hội thánh Chúa tại Việt Nam: Tại sao Những Người Đi Trước Tôi được Chúa cho kết thúc thế hệ của họ bằng ba cái khóa khó hiểu như vậy: Không Thấy – Không Nghe – Không Biết? Kết thúc một Thế Hệ công việc Đức Chúa Trời trên Đất Nước Việt Nam trong tình thế mới mẻ quá, không ai trả lời cho tôi. Tôi đành mượn lời của Phaolô nói: "Ngày nay tôi biết chưa hết; đến bấy giờ tôi sẽ biết như Chúa đã biết tôi vậy” (I Côr. 13:12).


 
 
 
GHI THÊM MỘT CHÚT
*********

 
 
 
1.    MỤC SƯ NGUYỄN VĂN TRÌNH

 
Cụ Mục sư Nguyễn văn Trình kể rằng, tại vùng ‘xôi đậu’, tức là nơi ban ngày thì người Quốc gia kiểm soát, còn ban đêm là do người Cộng sản kiểm soát. Vị Mục sư chủ tọa một Hội thánh mời một Truyền đạo đến giảng cho đêm Truyền giảng của Hội thánh.
Khi giờ buổi nhóm khởi sự, trong nhà thờ có nhiều người lạ hiện diện, không khí buổi nhóm bình thường. Bất ngờ sau khi vị Truyền đạo diễn giả  đứng lên đọc Thi thiên 14:1-7, thì rất nhiều cánh tay đưa lên muốn có ý kiến. Vị Mục sư chủ tọa Hội thánh địa phương tức thì đứng lên nói: “Vì đây là buổi nhóm thờ phượng Đức Chúa Trời, để không trở ngại, nếu anh em có ý kiến vui lòng ra phía sau gặp tôi”. Rồi Mục sư bước ra phía sau là tư thất, cũng có một số người đã đưa tay bước ra theo. Sau khi ngồi xuống, vị Mục sư chủ tọa hỏi những người ngồi đó có ý kiến gì? Một đại diện nói: ‘Chúng tôi không đồng ý vị Truyền đạo kia gọi chúng tôi là Kẻ Ngu Dại’. Mục sư chủ tọa đáp ngay: “Rõ ràng vị Truyền đạo kia không có nói, Thầy ấy chỉ đọc Lời của Đức Chúa Trời là Kinh thánh phán những người nào trong lòng cho rằng không có Đức Chúa Trời mới là ngu dại, trong khi lòng anh em đâu có nói như vậy”. Cảm ơn Chúa cho thế là qua cơn sóng gió!
Cảm ơn Chúa ban cho Những Người Đi Trước sự khôn ngoan!


 
2.    MỤC SƯ NGUYỄN VĂN THÌN
 
 
Hè năm 1968, một số anh em chúng tôi nhân dịp nghỉ hè của Thánh Kinh Thần Học Viện, đã cùng nhau đến Cô Nhi Viện Tin Lành Bến Cát tổ chức dạy Thánh Kinh Mùa Hè cho 80 cô nhi tại đó.
Bữa cơm trưa hôm ấy đặc biệt có vị Mục sư Trí sự Nguyễn văn Thìn cùng ăn, nhân dịp Cụ Mục sư đến thăm Cô Nhi Viện. Bữa ăn thật vui và cũng khá ồn ào với sự vui tính của vị Mục sư Trí sự. Bất chợt Cụ Mục sư lên tiến hỏi: “Tôi hỏi Quý Thầy, sau khi Tiên tri Giô-na ở trong bụng cá cầu nguyện ăn năn thì điều gì xảy ra?” Quá dễ nên vài anh em chúng tôi trả lời nhanh: "Thưa Cụ, Chúa bảo con cá nhả Giô-na ra”. Không ngờ Cụ Mục sư đáp: “Sai. Kinh thánh ghi: Đức Chúa Trời bảo con cá ‘mửa’ Giô-na ra. Và tôi (Mục sư Trí sự) nói với các Thầy, một người hầu việc Chúa, đã được Chúa kêu gọi như Giô-na nếu không tuyệt đối vâng lời, thì bị Chúa phạt. Dù có ăn năn, Chúa tha, nhưng từ đó về sau đi đâu Giô-na cũng bốc mùi tanh của con cá”. Chí lý thay một lời cảnh cáo của Những Người Đi Trước!

 
 
3.      MỤC SƯ NGUYỄN VĂN QUAN

 
Những năm tập sự hầu việc Chúa tại Hội thánh ở Bến Gỗ, mỗi sáng thứ bảy, tôi được Chúa cho có dịp cùng đi với Mục sư Nguyễn văn Quan, chủ tọa Hội thánh tại Biên Hòa vào Nhà Giam Tỉnh Biên Hòa để giảng Tin Lành cho các phạm nhân bị giam trong đó.
Một hôm, sau giờ đi giảng ở Nhà Giam về, ngồi uống nước với Mục sư Quan nơi phía trước tư thất mục sư chủ tọa Hội thánh tại Biên Hòa, có một người khách đến tìm Mục sư Quan. Người khách tự giới thiệu là một mục sư của giáo phái Hội thánh Đấng Christ. Sau vài câu chào thăm lịch sự, vị mục sư khách hỏi Mục sư Quan: “Theo như Mục sư nói thì Kinh thánh ghi lại tất cả mọi việc. Nếu nói như vậy, Kinh thánh có ghi lại việc Chúa Jêsus có đi tiêu không (nguyên văn lời của vị khách thuộc giáo phái Hội thánh Đấng Christ – TTS)?” Tôi chỉ là đàn hậu bối ngồi đó thật bất ngờ trước một câu hỏi có một không hai của một người tự xưng là ‘mục sư’ của một giáo phái hỏi về Kinh thánh, và tôi cũng thật không ngờ Chúa cho Mục sư Nguyễn văn Quan đầy khôn ngoan trả lời bảo vệ Kinh thánh là Lời Đức Chúa Trời, bịt mồm sư tử - Mục sư Quan rất bình tỉnh nói: “Thưa ông, tôi quả quyết nếu việc Chúa Jêsus ‘đi tiêu’ cần thiết cho sự cứu rỗi của ông thì chắc chắn Đức Chúa Trời đã cho phép ghi lại rồi”. Ha-lê-lu-gia! Cảm ơn Chúa đã cho tôi thấy sự ứng nghiệm của Lời Chúa phán trong Math. 10:20 trên một trong Những Người Đi Trườc Tôi.

 
 
LỜI KẾT
Dĩ nhiên, lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam không phải chỉ có bấy nhiêu Người Đi Trước đó, mà lịch sử là sự góp công góp sức của toàn thể tôi con của Chúa. Có những người tôi biết, có những người tôi không biết, nhưng tôi ghi lại Những Người Đi Trước nầy để nói với Những Người Đi Sau rằng:
·         Những Người Đi Trước đó họ không có được những phương tiện công nghệ cao như chúng ta có ngày nay, như internet, phone, những nguồn thông tin thế giới, những sự hỗ trợ đầy sức mạnh về tài chánh, kể cả chính trị bên ngoài, nhưng họ đã được Chúa dùng khả năng họ có để kiến tạo một Hội thánh của Chúa tại Việt Nam.
·         Những Người Đi Trước đó chịu cực khổ để làm người giảng Tin Lành cho dân tộc mình, ngay cả một đôi giày cũng không có, một cái khăn choàng cho người vợ cũng không, nhưng họ vẫn đánh trận tốt lành, vẫn xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Họ đã sống bởi Tin Lành làm người giảng Tin Lành không vì tiền bạc. Từ những cái không có họ được Đức Chúa Trời dùng để làm nên những ngôi nhà thờ, những người tin Chúa vững vàng trong chiến tranh, trong khó nguy, trong bắt bớ, trong đó có chúng ta được hưởng.
·         Những Người Đi Trước đó không có trình độ học vấn cao, họ thấp lắm, nhưng Chúa đã dùng những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn; Đức Chúa Trời đã dùng sự hèn hạ của họ để xây dựng Vương quốc của Chúa tại Việt Nam mà chúng ta đã thấy đó.
Chúa phán: “Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình, hãy nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thế nào, và HỌC ĐÒI ĐỨC TIN HỌ” (Hêb. 13:7)
Họ không xây lên những lâu đài, Họ không xây lên những cung điện, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng Những Người Đi Trước Tôi xây lên một ngôi nhà khang trang, ấm áp cho gia đình Hội thánh Tin Lành Việt Nam.
Tôi nhớ người Việt Nam cho bài hát:
Cái nhà nhà của ta,
Ông Cố, Ông Cha lập ra,
Cháu con phải gìn giữ lấy,
Muôn năm với nước non nhà.
“Ấy, anh em cũng nhờ Ngài mà được dự phần vào nhà đó, đặng trở nên nhà ở của Đức Chúa Trời trong Thánh Linh” (Êph. 2:22).
Vào Xuân 2015
Winston-Salem, North Carolina.
 
Mục sư Trần Thái Sơn.
 

[1] Câu đối gắn hai bên vòm nhà thờ Thánh Kinh Thần Học Viện vào Lễ Tốt Nghiệp
[2] Mục sư Lê văn Thái, Người Truyền đạo của Đức Chúa Trời, 1970, tr. 1-2. không ghi nơi và năm xuất bản.
[3] Mục sư Lê văn Thái, Những Tia Sáng II, tr.5, 415-416. 1965, không ghi ngày và nơi xuất bản.
[4] Mục sư Lê văn Thái, 46 năm chức vụ, Tác giả tự xuất bản, 1970, tr.101.
[5] Sđd, tr. 97-98.
[6] Sđd, tr. 159-161
[7] Sđd, tr. 179-182
[8] Sđd, tr. 193
[9] Mục sư Lê Hoàng Phu, Lịch sử Hội thánh Tin Lành Việt Nam (1911-1965), trích từ Bản đánh vi tính theo một bản đánh máy. tr. 251-261 trích không đồng đều.
[10] Mục sư Lê văn Thái, Sđd, tr. 143-156
[11] Thánh ca Tin Lành Việt Nam số 489; Thánh ca Giáo hạt Việt Nam số 128, câu 2
[12] Mục sư Phạm Xuân Tín, Hạt Giống, NXB Phương Đông 2012, chương XI, tr.96-105
[13] Sđd, tr.26.
[14] Sđd, Chương III, tr. 286
[15] Sđd, tr. 30
[16] Mục sư Phạm văn Năm, Dâng Trọn Cuộc Đời, Copyright bà Phạm văn Năm, California, ngày 25 tháng 2 năm 1995, tr. I, 1
[17] Pandita Ramabai, Phụ Nữ với Tin Lành, Cơ quan Xuất bản Tin Lành SG. Không ghi năm xuất bản. tr.19-20
[18] Bà Phạm văn Năm, Dâng Trọn Cuộc Đời, California, ngày 25 tháng 02 năm 1995. tr. 209-213.
[19] Donald T. Philipps, Thiên Tài Lãnh đạo, Hồ văn Hiệp bên dịch – NXB Trẻ, 2009. Tr. 193.

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những bài viết mới hơn

Những bài viết cũ hơn