Xa rời La-mã - Gần Đức Chúa Trời (6)

Xa rời La-mã - Gần Đức Chúa Trời (6)
Lúc 12 tuổi, tôi đã vào tu viện dòng tu Francisco. Tôi tìm kiếm lẽ thật trong một môi trường mà tôi nghĩ sẽ giúp tôi tìm được Đức Chúa Trời. Tu viện tọa lạc ở ngoại ô Madrid, Tây Ban Nha, thành phố tôi được sanh ra

 
ĐỐI DIỆN CHÂN LÝ
Lời chứng cá nhân của Enrique Garcia,
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 
 
Lúc 12 tuổi, tôi đã vào tu viện dòng tu Francisco. Tôi tìm kiếm lẽ thật trong một môi trường mà tôi nghĩ sẽ giúp tôi tìm được Đức Chúa Trời. Tu viện tọa lạc ở ngoại ô Madrid, Tây Ban Nha, thành phố tôi được sanh ra. Với cuộc sống trong tu viện như vậy, tôi bắt đầu kiếp sống hướng về Đức Chúa Trời bằng cách khước từ tất cả những quyền lợi đối với chính mình. Lý thuyết hành xác rất cổ và kết hiệp với tư tưởng Công giáo Lamã. Hơn nữa triết lý thần bí của Tây Ban Nha bao gồm sự thực hành khổ tu là phương pháp nhờ đó một người có thể tìm được Đức Chúa Trời. “Hành xác” có nghĩa là chết từ từ, mà chết là chết cá tính của một người.

Sau nhiều năm chuẩn bị, lúc 17 tuổi tôi lập những lời nguyện vâng phục; tôi từ bỏ tất cả quyền của cá nhân mình kiểm soát bất cứ điều gì. Người vâng lời trọn vẹn là người toàn tâm toàn ý phục tùng bề trên của mình. Trong tu viện không thể làm điều gì mà không được kiểm soát. Xác định những luật lệ cách cẩn thận và những tuyên bố qui định tiêu chuẩn mà mọi người phải sống, không ai dám mạo hiểm vượt qua.

Lời nguyện trinh bạch bao hàm không chỉ là một sự tự nguyện từ bỏ những quyền lợi hôn nhân, nhưng cũng là tất cả những vui thú, cả tình bạn không được chấp nhận. Để đạt được sự thống trị hoàn toàn và kiểm soát tất cả những ước mong thuộc con người, một số những thực hành gây đau đớn được tiến hành thường xuyên. Thí dụ như sau:
-          Một năm kiêng ăn 4 lần, mỗi lần 40 ngày không gián đoạn.
-          Hành xác đổ máu 3 lần một tuần. Điều nầy được thực hiện bằng cách dùng nhiều sợi dây thép lúc nào cũng cầm trên tay.
-          Mặc vải thô để chống lại thân thể ngày đêm.
-          Giường ngủ là những miếng ván kể cả những lá cây bắp cũng như những vật nào có thể làm thân thể đau đớn

Những điều đó dụng ý để chuẩn bị thân thể tôi từ bỏ hoàn toàn môi trường cuộc sống đòi hỏi. Với lời nguyện sống nghèo, tôi hứa không sử dụng tiền bạc theo ý tôi. Hơn nữa, tôi sống hoàn toàn thuộc vào những người sẽ cho phép tôi dùng những điều cần thiết cho sự sống của tôi. Người Capuclin ngoan đạo chỉ có thể sử dụng những vật do mình có sẵn. Người đó không sở hữu riêng vật gì.

Hệ thống quan trọng của những người thực hành khổ hạnh mà tôi biết từ thời thơ ấu đã không tiến triển. Tôi chờ đợi đầy hi vọng được nhìn thấy những kết quả công việc và sự chịu khổ của tôi. Nhưng những kết quả chỉ là mong ước quá cao không bao giờ thành sự thật. Trong tận cùng bản chất của tôi chỉ có sự cô đơn, phiền muộn và sợ hãi. Tôi sợ mọi thứ - sợ cuộc sống, sợ tình yêu, sợ những ý định riêng của mình và sợ Đức Chúa Trời. Bây giờ đã 33 tuổi, tôi nhận biết rằng toàn bộ kiểu sống của tôi có thể được giải thích trong một từ “Không”. “Đừng làm điều nầy, đừng nói đều kia, đừng nghĩ… Không … Không …”

Nghệ thuật đóng vai trò chói sáng nhất trong đời sống tu hành của tôi. Trong khi ở tu viện, tôi có thể học và thực tập âm nhạc. Âm nhạc trở nên nhu cần không thể thiếu trong đời sống của tôi, bởi nhờ âm nhạc tôi có thể làm dịu đi sức ép to lớn trong bản ngã của mình. Sau khi tôi đã trở thành một Linh mục, tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu âm nhạc. Tôi quyết định dành nhiều thì giờ hơn để học đàn dương cầm. Tôi tìm thầy giỏi và đó là cách mà Americo Caramuta xâm nhập đời sống tôi cũng như trở nên một phần của thế giới nhỏ bé và hạn chế tôi sống trong đó. Về sau tôi biết ông ấy là một Cơ-Đốc nhân Tin Lành và là thuộc viên Hội thánh Báp-tít. Đối với tôi, cuộc sống tiếp tục là sự tối tăm hoàn toàn. Tuy nhiên, cũng ngay lúc đó, trong tôi niềm mong ước sống thật đã lớn lên. Cách sống mà tôi đã kinh nghiệm hoàn toàn không thể chấp nhận được. Tôi muốn phá bỏ toàn bộ, nhưng tôi sợ. Tôi cần một người nào đó liều lĩnh sẽ tái định hướng và chỉ dẫn tôi; một người nào đó sẽ truyền sức mạnh cho tôi. Americo là người đó. Tôi chia sẻ sự khủng hoảng sâu xa của tôi với ông, và trong bốn lần trò chuyện, ông đã trả lời câu hỏi của tôi từ Kinh thánh, là Lời Đức Chúa Trời. Lần lần ánh sáng bắt đầu vươn lên, tôi nhận biết nhiều niềm tin mà tôi có trước kia được coi như không thể sai lầm đã không có bất cứ nền tảng vững chắc trong Lời Đức Chúa Trời, như chức vụ Linh mục, sự vô ngộ của Giáo hoàng, các bí tích và nhiều điều khác.

Sự chia tay của tôi với mọi điều liên hệ Công giáo Lamã bây giờ đã được củng cố. Nhưng khi tôi tiếp xúc thế giới bên ngoài, tôi bắt đầu hoảng sợ. Từ lúc 12 tuổi, tôi đã vào tu viện, bây giờ tôi đã 33 tuổi. Toàn bộ đời sống tôi đã sống trong bầu không khí đó. Tất cả những học hỏi của tôi chỉ liên hệ cuộc sống đó. Tôi sẽ làm gì bên ngoài đời sống nầy nơi mà tôi đã sống những năm tốt đẹp nhất? Mọi sự trở thành một câu hỏi lớn, gia đình, bạn hữu, tương lai của tôi, đòi hỏi những câu trả lời. Dù vậy, tôi quyết định dứt khoát rời tu viện và Giáo hội Công giáo Lamã.

Rồi sau đó, tôi bắt đầu dự những giờ thờ phượng của Hội thánh Báp-tít ở Madrid và vào Chúa nhật thứ nhì, tôi đáp ứng lời mời của vị Mục sư. Tôi cảm nhận được sự vui mừng lớn trong lòng. Một mình với Đức Chúa Trời trong nhà của tôi, tôi dừng lại các cố gắng vô ích của tôi để đạt sự cứu rỗi qua công đức. Tôi biết những việc làm không bao giờ có thể cứu tôi. Toàn bộ đời sống tôi đã chứng tỏ rõ ràng sự việc nầy. Tôi dâng trọn vẹn chính mình cho Đức Chúa Trời với một cảm xúc mới và thánh khiết.
Tôi tiếp nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa có một và duy nhất của linh hồn tôi và Ngài ngự đến với tôi lúc nầy cách đơn giản, bình an, rõ ràng, mà đến bây giờ tôi chưa bao giờ kinh nghiệm. Hiện nay, tôi thuộc về Đấng Christ và Ngài yêu tôi. Đây là một bí mật, tôi được báp-têm trong nhà thờ ở thành phố Madrid. Tiếp theo, tôi được ghi tên vào Chủng viện Báp-tít ở Barcelona và hoàn thành những môn học thần đạo và giáo dục Cơ-Đốc. Chúa đã gọi tôi làm mục sư trong Hội thánh của Ngài. Trung tâm qui đạo ở Havertown, PA. cho tôi đến Mỹ hoàn thành những môn học về Kinh thánh và âm nhạc.

Để tìm được lẽ thật, cần phải trả giá, nhưng tôi chưa bao giờ hối tiếc. Bảy năm tranh chiến và mâu thuẫn. Cuối cùng tôi có thể chứng tỏ Đấng Christ thật sự ngự trong đời sống tôi, chính Chúa Jêsus Christ đã phán: “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống” (Giăng 14:6).

Quý vị có BIẾT Thiên đàng là nhà của quý vị không? Tôi tin rằng quý vị sẽ dâng lòng mình cho Chúa Jêsus Christ: “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Rôma 6:23).
Do Linh mục qui đạo Enrique Garcia


 
TẠI SAO TÔI RỜI BỎ
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO LAMÃ?
Lời chứng cá nhân của John Preston
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 
 
“Lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Giăng 8:32). Lẽ thật Phúc âm của Chúa Jêsus đã làm cho hàng triệu người thoát khỏi tội lỗi, gánh nặng và lo lắng. Chứng cớ chân thật của Kinh thánh vẫn là “quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rôma 1:16). Câu chuyện tôi được tự do thoát khỏi sự tối tăm của Công giáo Lamã, được ở trong “sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời” (Rôma 8:21), chỉ là một bằng cớ khác của cùng quyền năng.

Sự qui đạo của tôi không có gì nổi bật, không có sự thay đổi bất ngờ hoặc sự kiện huyền bí nào buộc tôi từ bỏ Giáo hội Công giáo Lamã và đầu phục Đấng Christ. Chỉ là công việc yên lặng, bền bĩ của ân điển Đức Chúa Trời, cũng như việc thi hành hằng ngày của một hệ thống sai lầm, được gọi cách đúng là Công giáo Lamã và Cơ-Đốc nhân.

Được sinh ra ở phía bắc nước Ý, cha mẹ tôi là người Công giáo Lamã, tôi được rửa tội và chịu lễ thêm sức trong cùng niềm tin. Năm 12 tuổi, tôi cảm thấy được Đức Chúa Trời kêu gọi vào chức vụ Linh mục và tôi vào Chủng viện, nơi tôi trải qua chín năm được huấn luyện tích cực và nghiêm khắc. Suốt những năm nầy một cơn khủng hoảng sâu xa và dai dẳng, làm tôi lần đầu tiên nhận rõ việc xưng tội thì thầm là vô ích. Linh hồn tôi bị tội lỗi che lấp và tâm linh tôi bị sự nghi ngờ hành hạ. Tôi tìm kiếm sự sáng và bình an cách tuyệt vọng. Tôi được dạy xưng tội hầu như mỗi ngày, suy nghĩ tìm trong đó sự tha tội và hạnh phúc. Nhưng thật vô ích, dù tôi cố gắng cực nhọc thế nào, thường xuyên xưng tội với Linh mục giải tội, cũng không có sự đảm bảo tha tội nào được ban cho tôi, không có sức mạnh nào thổi vào lòng tôi để giữ lòng tôi thánh sạch hơn, làm cho tội ít hơn.
Bây giờ, vui mừng biết dường nào trong đời sống hiện tại của tôi tương phản với những điều trên. Bây giờ, tôi đặt tất cả tin cậy của tôi vào Chúa: tôi biết Đấng tôi tin, biết rằng Ngài có thể giữ gìn tôi “đến ngày ấy”.. Bây giờ, tôi xưng tội trực tiếp với Đức Chúa Trời và Ngài tẩy sạch tôi, ban cho tôi một tấm lòng mới, khiến tôi trở thành một tân tạo vật bởi quyền năng tẩy sạch của Huyết Chúa Jêsus.

Để đắc thắng sự khủng hoảng nội tâm, tôi quyết định hiến mình làm tế lễ sống được sử dụng giữa dân tộc Phi Châu. Vì vậy, tôi gia nhập Dòng Tu Truyền Giáo mà ở Ý hãnh diện với tên vinh hiển: “Các Con Trai của Trái Tim Thánh Jêsus”, và tại nước Anh được biết là “Các Cha Verona”.

Mặc dù tôi mang ơn các Linh mục Verona rất nhiều vì đã giúp tôi suốt năm năm chịu huấn luyện, nhưng tôi không thể bỏ qua cách họ sửa soạn cho người ứng cử chức vụ tôn giáo và cho chức vụ Linh mục. Toàn thể sự chuẩn bị được tập trung vào những công tác, những điều phải làm; toàn bộ sự cứu rỗi tùy thuộc vào những gì chúng ta làm, không tùy thuộc vào điều Chúa Jêsus đã làm, chúng ta xứng đáng cho sự sống đời đời hay hình khổ đời đời. Chúa Jêsus không còn là “Cội rễ và cuối cùng của đức tin”, không còn là “An-pha và Ô-mê-ga”, không còn là “đầu tiên và cuối cùng”.

Việc làm của chúng ta, giá trị của chúng ta, lời cầu nguyện của chúng ta, sự bố thí của chúng ta và những sự ăn năn của chúng ta đưa chúng ta vào Thiên đàng, chứ không phải là Chúa Jêsus. Đó là lý do suốt hai năm tập sự, tôi bị hấp dẫn để đánh thân thể trần trụi của tôi, hôn sàn nhà phòng ăn hoặc bàn chơn ai đó.

Cuối năm tập sự, tôi dự khóa huấn luyện bốn năm Thần học và được phong chức ở Mi-lan năm 1952. Sau một năm chức vụ và truyền giáo tẩy rửa ở phía bắc và miền trung nước Ý, tôi được sai đến Asmara, ở Eritrea làm giáo sĩ và giáo viên trong một trường lớn của Công giáo Lamã. Tại đó, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với các giáo sĩ Tin Lành và được tặng một số ấn phẩm để đọc. Tôi cũng nhận biết nhiều hơn sự chuyên chế mà hệ thống Công giáo Lamã có.

Hai năm sau đó, tôi đến London để trau dồi Anh ngữ, tôi tiếp tục nghiên cứu niềm tin Tin Lành và cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin được soi sáng. Ở London, bấy giờ tôi tình cờ nghe Tin Lành được giảng nơi “Góc Diễn Giả” trong công viên Hyde. Sự can đảm và dũng cảm của họ phơi bày những tà thuyết của Giáo hội Công giáo Lamã đã giúp tôi lần cuối thoát khỏi Giáo hội Công giáo Lamã. Ông P. Pengilly, diễn giả lộ thiên của Tin Lành Liên Hiệp, là một người có ảnh hưởng.

Cũng đang lúc ở London, lần đầu tôi gặp cựu Mục sư T. R. Horan, người quản lý Hội Truyền giáo Hội thánh Ailen ở số 5 đường Towndend, Dublin. Tại đó sau nhiều tháng cầu nguyện và tập trung sự dạy dỗ, tôi được nhận chính thức vào cộng đồng của Hội thánh Ailen trong Hội Truyền giáo. Rồi cụ Mục sư T. R. Horan để tôi tiếp xúc với Mục sư Mariam Rughi, một Linh mục ra khỏi Giáo hội Công giáo Lamã người Ý, đã từng là chủ tọa nhà thờ Thánh Phao-lô, Halliwell, Bolton. Sau đó ông Rughi giới thiệu tôi đến Giám mục Manchester, để tôi chịu một năm huấn luyện tại trường Thần học Aiden, Birkenhead, Cheshire.

Để kết luận, tôi muốn khẳng định rằng trong khi viết bài làm chứng nầy, tôi không mang ác cảm với ai. Trái lại, là “sự mong ước của lòng tôi và cầu nguyện với Đức Chúa Trời” để nhiều người Công giáo Lamã thấy được ánh sáng Phúc âm như tôi đã thấy, và để họ có được sự vui mừng nhận Chúa Jêsus là Cứu Chúa của chính mình. Đó là niềm vui khám phá thuôc linh quan trọng, và sự mong ước truyền đạt cho những người khác đã thúc giục tôi viết xuống những dòng chữ nầy cùng tin rằng Đức Chúa Trời được vinh hiển.
Do Linh mục qui đạo John Preston

 

TÔI KHÔNG CHỐNG CHÂN LÝ
Lời chứng cá nhân của Bruno Bottesin
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 
 
Tôi được sinh ra ở Vicenza, nước Ý, năm 1917. Lúc 11 tuổi, tôi vào trường dòng Franciscan để học làm Linh mục. Sau khi được phong chức, tôi được làm chủ chăn một giáo xứ nhỏ miền núi Castagnara. Năm 1954, tôi được chuyển đến một giáo xứ lớn hơn trong thành phố Chieti. Rồi Giám mục Piasentini mời tôi dạy trong Chủng viện ở Chioggia và cũng phân công tôi đến một nhà thờ tại đó.

Cuối cùng, tôi nghĩ tôi đã tìm được đúng chỗ cho chức vụ của tôi. Tôi là giáo viên trong Chủng viện, chủ chăn một giáo xứ tốt, và được vị Giám mục ưu đãi. Tôi tổ chức một nhóm hành động rất tốt. Tôi làm việc ngày đêm cho giáo dân của tôi với lòng hăng say lớn. Nhưng chẳng bao lâu, tôi bắt đầu nhận ra rằng tất cả hoạt động và sự dạy dỗ của tôi vỀ tín lý và giáo điều Công giáo Lamã không thể thay đổi đời sống giáo dân. Họ đi nhà thờ mỗi sáng Chúa nhậT, dự những bí tích và ngay cả xưng tội, nhưng họ từ chối sống theo sự dạy dỗ của Phúc âm của Chúa Cứu thế. Làm sao tôi có thể tiếp tục ban các bí tích cho những người không muốn từ bỏ tội lỗi của mình? Họ giả bộ làm một Ki-tô hữu, nhưng họ đã nghịch lại những điều Đấng Christ dạy chúng ta phải làm trong Phúc âm của Ngài. Hầu hết giáo dân của tôi không muốn dâng hiến và biến cãi đời sống tội lỗi mình bắt đầu chống lại tôi và nhiều người trong số họ muốn nói: “Dạy những điều dại dột. Tại sao chúng tôi phải thay đổi cách sống trong khi chúng tôi đã làm những điều Giáo hội Công giáo Lamã đòi chúng tôi làm? Chúng tôi nhận thánh thể, đem con cái đến cho các Linh mục rửa tội và thêm sức, chúng tôi kết hôn bởi các Linh mục làm lễ, kiêng thịt ngày thứ sáu, đi nhà thờ Chúa nhật. Vị chủ chăn mới của chúng tôi còn muốn chúng tôi làm gì nữa? Chúng tôi là Ki-tô hữu bởi vì chúng tôi thuộc về Giáo hội Công giáo Lamã”.

Một số người báo cho vị Giám mục về tôi, ông ấy gọi tôi đến nhà ông ấy và nói với tôi rằng tôi phải từ bỏ vị trí làm giáo viên và chủ chăn, vì tôi không theo sự dạy dỗ của Giáo hội Công giáo Lamã. Ông ấy nói rằng tôi đang giảng về Đấng Christ và nương cậy nơi Chúa thay vì nói với họ nương cậy vào các thánh của Giáo hội Công giáo Lamã, các bí tích, và các Linh mục là những người có quyền giống như Đấng Christ có thể tha thứ tội lỗi. Tôi cố gắng trong sự vô hiệu thuyết phục vị Giám mục của tôi rằng không phải tôi đang giảng tà giáo nhưng chỉ là Phúc âm, rằng họ không thể được tha tội trừ khi ăn năn với Đức Chúa Trời, bởi vì chỉ có một Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người, là Chúa Jêsus Christ, là người. Vị Giám mục rất tức giận và đuổi tôi khỏi chức vụ chủ chăn cũng như giáo viên. Tôi nói với ông rằng tôi sẽ kêu nài Đến Lamã, đến Giáo hoàng và ông đề nghị tôi đi ra.

Tôi lên đường đến Lamã vài ngày sau khi sửa soạn bản tranh luận của tôi. Tôi đến Vatican để trình bày trường hợp tôi với Giáo hoàng Pius XII. Sau nhiều ngày tôi không được trả lời. Rồi tôi được tin Giáo hoàng không có thì giờ nghe trường hợp của tôi, tôi sẽ phải đến Bộ Thánh Vụ. Lúc đó tôi biết rằng tôi đã bị cô lập ngay cả người tự xưng là đại diện Đấng Christ và là Đức Thánh Cha cũng bỏ rơi tôi. Tóm lại, tôi tuyệt vọng. Tôi bắt đầu nhận ra sự khác nhau giữa Phúc âm và tổ chức Giáo hội. Phúc âm là vì con người, nhưng tổ chức của Giáo hội Công giáo Lamã không phải được dựng lên vì lợi ích của con người mà vì người lãnh đạO chính trị và xã hội.

Tôi rời Lamã và quay lại với giáo dân của tôi, nhưng khi tôi quay lại, tôi không còn nhà thờ, không còn chức vụ giảng dạy. Tôi không từ bỏ, nhưng xác định đặt niềm tin vào Chúa. Tôi ở lại trong thành phố giữa giáo dân tôi. Một người bạn cho tôi một căn phòng và tôi ở đó trong sự yên tĩnh, sau nhiều gian nan và đau khổ với vị Giám mục, kế đó ở Lamã. Tôi bắt đầu đọc Phúc âm để được an ủi. Chưa bao giờ trước đó tôi được đọc quyển sách nào hấp dẫn như vậy.

Khi tôi đọc Phúc âm, tôi thật ngạc nhiên tìm được câu trả lời có nhiều nghi ngờ của tôi mà tôi đã có về một số sự dạy dỗ của Giáo hội Công giáo Lamã. Chính ngày hôm đó, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, tôi bắt đầu biết rằng hầu hết những giáo điều và sự dạy dỗ mà tôi là Linh mục đã thuyết phục giáo dân tin không phải là Phúc âm, mà là sản phẩm của con người, ngay cả còn nghịch lại Kinh thánh. Tôi bắt đầu thấy qua 17 năm, tôi không phải là đầy tớ của Chúa Jêsus Christ, cũng không phải thầy tế lễ của Chúa, nhưng là đầy tớ của một tổ chức đầy quyền lực.

Thật ngạc nhiên là phải cần một thời gian dài tôi mới khám phá ra lẽ thật. Quý vị nhớ rằng một ứng cử viên chức Linh mục vào chủng viện ngAy khi còn là một đứa trẻ cho đến khi trưởng thành, người đó đã được huấn luyện đầy đủ, kết quả không phải dễ dàng quyết định để chống lại Giáo hội Công giáo Lamã. Quý vị có nghĩ rằng tất cả Linh mục tin những gì họ dạy không? Nhiều người trong số họ không tin, nhưng họ vẫn ở trong chức Linh mục, bởi vì họ sợ trốn thoát. Tôi không thỂ tiếp tục làm tôi hai chủ là Giáo hoàng và Chúa Jêsus Christ.

Tôi đã chọn Đấng Christ và nhận Ngài làm Cứu Chúa cho cá nhân tôi. Bây giờ tôi gIẢng Phúc âm thật với sự tự do và không có những sự hạn chế trong cùng thành phố tôi làm Linh mục. Những sự bắt bớ rất nhiều, nhưng Chúa đầy quyền năng, nhiều người đã trở lại với Chúa. Quý vị Linh mục thân mến của tôi, nếu quý vị đang đọc những lời nầy, đừng chống nghịch lẽ thật, nhưng hãy tìm kiếm lẽ thật trong Phúc âm và giảng lẽ thật từ Kinh thánh. Chúng ta không được sửa đổi Phúc âm theo những sự dạy dỗ của chúng ta, nhưng chúng ta phải thAy đổi mình theo PhúC âm. Nếu chúng ta là những Linh mục không trở lại với lẽ thật Phúc âm, chúng ta sẽ không có hi vọng hoặc hạnh phúc cho chúng ta hoặc cho giáo dân, mà chỉ là tối tăm, hối tiếc và tội lỗi.

“Khi cha mẹ bỏ tôi đi, thì ĐỨC GIÊ-HÔ-VA sẽ tiếp nhận tôi. Hỡi ĐỨC GIÊ-HÔ-VA, xin chỉ dạy tôi con đường Ngài: nhơn vì các kẻ thù nghịch tôi. Xin hãy dẫn tôi vào lối bằng thẳng. Chớ phó tôi cho ý muốn kẻ cừu địch tôi; vì những chứng dối và kẻ buông ra sự hung bạo, đã dấy nghịch cùng tôi” (Thi thiên 27:10-12)
Do Linh mục qui đạo Bruno Bottesin


 
 
TÔI ĐÃ LÀ MỘT LINH MỤC CÔNG GIÁO LAMÃ
Lời chứng của John Zanon,
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 
 
Tôi được sinh ra năm 1910 trong gia đình cha mẹ nghèo nhưng ngoan đạo, sống ở phía bắc nước Ý. Tôi được phong chức ngày 29-6-1935 bởi Hồng y Rossi, được sai đến Hoa kỳ.

Vài năm sau, tôi trở lại quê hương, tôi nhận được một máy thu thanh để bàn là món quà sinh nhật. Lần thứ nhất trong đời sống tôi có thể ngồi và thưởng thức nó. Tôi ngạc nhiên và vui mừng tìm thấy những chương trình Tin Lành mỗi ngày và vài chương trình vào Chúa nhật. Tôi thích những sứ điệp và những bài hát lúc bắt đầu chương trình của họ.

Điều gây ấn tượng cho tôi là hầu hết họ đặt ý quan trọng vào việc nhấn mạnh trên Lời Đức Chúa Trời. Hình như đối với tôi, những nhà truyền đạo nầy thật làm ứng nghiệm sự ủy thác của Đấng Christ: “giảng Tin Lành… là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rôma 1:16).

Trong sự cố gắng chứng tỏ tôi ở trong Giáo hội Công giáo Lamã đúng như thế nào, và họ ở ngoài là sai như thế nào, tôi bắt đầu đọc Kinh thánh cách nghiêm túc và cầu nguyện nhiều. Càng đọc tôi càng khó cầu nguyện với Đức Chúa Trời hơn, tôi hiểu rõ hơn Giáo hội Công giáo Lamã sai lầm như thế nào.

Trong Phúc âm Giăng, tôi đọc: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời” (Giăng 1:12), “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất, mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16). Kinh thánh làm rõ nhất vấn đề nầy về sự cứu rỗi của chúng ta.

Ngay cả làm một Linh mục Công giáo Lamã cũng không bảo đảm sự cứu rỗi cho linh hồn tôi. Tôi đi đến nhận thức rằng sự sốt sắng và những việc lành của tôi làm một Linh mục không thể cứu tôi, bởi vì tôi đọc trong Kinh thánh Công giáo Lamã: “Nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu; điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Êphêsô 2:8-9).

Lời đó làm lung lay niềm tin của tôi trong những sự dạy dỗ của Giáo hội Công giáo Lamã. Cho đến nay tôi đã tin nhận một cách mù quáng tất cả sự dạy dỗ của Giáo hội Công giáo Lamã. Một người Công giáo Lamã không có sự lựa chọn, hoặc nhận những giáo lý Công giáo Lamã không thắc mắc, hoặc bị dứt phép thông công. Vì tôi bắt đầu nghi ngờ mọi sự, tôi khởi sự tìm kiếm Kinh thánh chuyên cần hơn bao giờ.

Tôi khám phá sự dâng tế của Chúa Jêsus Christ trên thập tự giá đã hoàn thành: “Ấy là theo ý muốn đó mà chúng ta được nên thánh nhờ sự dâng thân thể của Đức Chúa Jêsus Christ một lần đủ cả” (Hê-bơ-rơ 10:10), “Vì nhờ dâng chỉ một của lễ, Ngài làm cho những kẻ nên thánh được trọn vẹn đời đời” (Hê-bơ-rơ 10:14). “Không như những thầy tế lễ khác, cần phải hằng ngày dâng tế lễ, trước vì tội mình, sau vì tội dân; Ngài làm việc đó một lần thì đủ cả, mà dâng chính mình Ngài làm tế lễ” (Hê-bơ-rơ 7:27). Vậy thì không cần lễ Misa, sự xưng tội hay ngục luyện tội.

Tôi bắt đầu nhận ra những giáo lý của Giáo hội Công giáo Lamã được gọi là có một và thật đều là vô nghĩa nhưng là những sự lừa dối của người Công giáo Lamã. Theo đuổi việc học Kinh thánh Công giáo Lamã nhiều hơn, tôi học được rằng sự tôn kính bà Ma-ri, mẹ của Cứu Chúa, và các thánh không hề được đề cập trong Kinh thánh. Chính bà Ma-ri đến dự tiệc cưới tại Ca-na, bà trực tiếp đến với Chúa Jêsus, và “Mẹ Ngài nói với những kẻ hầu bàn rằng: Người biểu chi, hãy vâng theo cả” (Giăng 2:5). Đấng Christ mời chúng ta trực tiếp đến với Ngài , không qua các thánh như Giáo hội Công giáo Lamã dạy: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, thì ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ” (Mathiơ 11:28). “Vậy Đức Chúa Jêsus Christ đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6). :Nếu các ngươi nhơn danh ta xin điều chi, ta sẽ làm cho” (Giăng 14:14). Và Phaolô được mặc khải thiên thượng viết: “Vì chỉ một Đức Chúa Trời và một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người, là Đức Chúa Jêsus Christ, là người” (I Timộthê 2:5).

Một lần nữa, tôi phải kết luận từ sự nghiên cứu Kinh thánh của tôi rằng 1001 sự tôn thờ các thánh là sự lừa dối của Giáo hội Công giáo Lamã. Lần đầu tiên trong đời sống tôi, tâm trí tôi trở nên trong sáng như pha lê rằng những sự dạy dỗ của Giáo hội Công giáo Lamã là sai. Tôi cảm tạ Chúa vì Ngài soi sáng tâm trí tôi. Tôi không có sự lựa chọn trừ ra rời bỏ Giáo hội Công giáo Lamã. Tôi bắt đầu lên kế hoạch của tôi.

Ngoài quyết định làm tôi sợ hãi, là tôi biết cha mẹ và anh em tôi sẽ đau lòng và những người Công giáo Lamã sẽ cảm thấy tôi làm nhục họ. Tôi cũng sẽ trả giá với nhiều người bạn suốt đời, sự an toàn, uy tin và một cuộc sống tiện nghi. Tôi hoãn lại và cầu nguyện. Tiếng của Chúa rõ ràng đến và mạnh mẽ: “Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta” (Mathiơ 10:37).

Để làm yên lặng lời cảnh cáo thiên thượng nầy, tôi để Kinh thánh qua một bên, và bắt đầu làm việc nhiều hơn bao giờ. Tôi nhớ lại những lời cầu nguyện đã lập trong chủng viện và đặc biệt vào ngày được phong chức: Phải làm một trong những Linh mục tốt nhất. Việc nầy cho tôi bình an tâm trí vài năm.

Tháng Giêng năm 1955, tôi có một niềm vui đáng ngạc nhiên. Mục sư Joseph Zacchello chủ bút “Tạp chí Qui Đạo” đến thăm tôi đang khi ông ở thành phố Kansas, bang Missouri. Tôi giật mình khi ông ấy hỏi tôi được cứu chưa. Câu hỏi nầy ám ảnh tôi, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời một lần nữa tỏ cho tôi con đường cứu rỗi. Tiếng của Chúa đến rõ ràng và quở trách tôi: “Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo” (Mathiơ 10:34). Thanh gươm đó tôi đã dùng để chặt đứt mình ra khỏi mọi người gần gũi và thân thương của tôi.

Ngày nay, sau khi nhận Chúa Jêsus làm Cứu Chúa cá nhân tôi, tôi kinh nghiệm chính Ngài khi Ngài phán: “… Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người nào vì cớ nước Đức Chúa Trời mà bỏ nhà cửa, cha mẹ, anh em, vợ con, thì trong đời nầy được lãnh nhiều hơn và đời sau được sự sống đời đời” (Luca 18:29-30).
Do Linh mục qui đạo John Zanon


 
CHÚA ĐÃ GỌI TÔI
Lời chứng cá nhân của Cipriano Valdes Jaimes
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 

Bạn và tôi một lần hoặc đôi lần không do dự đã từng thấy một người mặc áo dài đen, đôi khi là áo trắng, đi bộ với đôi tay vén lên và với sự sáng sủa biểu lộ trên gương mặt. Ý nghĩ đầu tiên của chúng ta có thể nhìn vào “một vị thần khoác áo như con người”, để dùng biểu lộ chung trong một vài giới nào đó. Thường đó là một Linh mục Công giáo Lamã, một hình ảnh che đậy sự huyền bí.

Tôi, Cipriano Valdes Jaimes, là một trong các Linh mục. Tôi được sinh ra ở Michoacan, Mexico, trong một gia đình Công giáo Lamã ngoan đạo, tôi tiếp nhận nền giáo dục tiểu học dưới con mắt cảnh giác của những người dạy tôi tuân theo thói quen xưng tội  và rước thánh thể hằng ngày. Khi tôi được 12 tuổi, tôi đã gõ hai cánh cửa Chủng viện giáo khu ở Chilapa, trong bang Guerero. Tôi học tiếng La-tinh của Cicero và Vingil trong năm năm. Trong ba năm, tâm trí tôi được đầy triết lý của các tác giả Hi-lạp, với sự chuyên cần, tôi được cho học bốn năm Thần học, chỗ mà tôi học những giáo điều của Công giáo Lamã. Cuối cùng, ngày 18-10-1951, vào ngày của Thánh Luca, tôi được phong chức Linh mục. Một ngày kia, qua sự đặt tay của vị Giám mục, tôi được ban cho những quyền năng không thể tin được, lừa dối, giả trá, mà Giáo hội Công giáo Lamã giả bộ ban cho một người để lừa gạt người khác. Tôi được ban cho khả năng tha tội loài người, cả bên trong lẫn bên ngoài phòng xưng tội kinh khiếp. Vào ngày đó, tôi tiếp nhận quyền thay thế Đấng Christ một lần nữa trên bàn thờ theo ý thích và thị hiếu của tôi. Bấy giờ tôi có thể giải phóng các linh hồn khỏi ngục luyện tội, một nơi do Giáo hội Công giáo Lamã đặt ra, qua lễ nghi dối trá và có lợi. Đây là sự dạy dỗ không thể bài bác được của Giáo hội Công giáo Lamã, cho rằng trước khi vào Thiên đàng, linh hồn của loài người phải qua hồ lửa như vậy. Quá xa rời chân lý! Thật là sai lầm! Nhưng đó là điều tôi tin từ kết quả bốn năm làm việc cần cù, chua cay trong thần học giáo điều và luân lý. Vì vậy, khi tôi được bảo rằng tôi có quyền tha tội cho những người theo tôi, tôi tiếp nhận với cả tấm lòng, mà không nhận thấy rằng sự tha tội là một sự thiêng liêng không thể ủy thác cho một con người. Kinh thánh phán rằng: “Ấy chính ta, là Đấng vì mình ta mà xóa sự phạm tội ngươi; ta sẽ không nhớ đến tội lỗi ngươi nữa” (Êsai 43:25). “… Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mác 2:7). Suốt 20 năm trong chức vụ Linh mục Công giáo Lamã, tôi thi hành quyền nầy cách lố bịch, đáng hổ thẹn, chống lại Kinh thánh, thực hành việc hằng ngày lắng nghe những yếu đuối của xã hội, bao gồm những quân nhân, những chuyên gia và những nhà chính trị. Tôi là Hiệu trưởng thuộc linh trong các trường. Độ một năm, tôi giữ chức phụ tá Linh mục giáo xứ, và độ 19 năm làm Linh mục giáo xứ. Tôi có những người giúp đỡ và những Linh mục phụ tá giúp tôi trong việc thực hiện những công việc vô lý.

Để lập lại tế lễ không có huyết của Đấng Christ trên bàn thờ, tôi được ban quyền biến bánh thành thành thân Chúa và rượu nho thành huyết Chúa qua những câu thần chú dâng tế. Với sự tôn kính và vui mừng, tôi tiếp nhận uy quyền nầy. Trong tay tôi sẽ được tìm thấy Đấng Tạo hóa, Đức Chúa Trời đời đời. Tôi có khả năng tiếp tục dâng tế lễ Đấng Christ 20 năm sao? Và tôi bốn lần dâng vào những Chúa nhật. Thật là một trò đùa kinh khủng; đáng xấu hổ cho tôi và cho tất cả mọi người dự phần vào điều Giáo hội Công giáo Lamã gọi là Lễ Misa. Loài người không thể lặp lại công việc Đấng Christ đã làm trên thập tự giá. Có thể là sự lừa gạt của ma quỉ, trong Rôma 6:9 Kinh thánh phán: “Bởi biết rằng Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, thì chẳng chết nữa; sự chết không còn cai trị trên Ngài”. Vậy thì làm cách nào một Linh mục có thể khiến cho Chúa chết một cái chết không đổ huyết? Hê-bơ-rơ 9:22 tuyên bố rằng: “Không có sự đổ huyết thì không có sự tha thứ”. Vậy, những việc tôi làm có mục đích gì? Nó có làm cho những linh hồn nơi ngục luyện tội được trong sạch và tự do không? Kinh thánh tuyên bố: “… và huyết của Đức Chúa Jêsus, con Ngài làm sạch mọi tội chúng ta” (I Giăng 1:7).

Giáo điều Công giáo Lamã tuyên bố rằng trong một chút bánh và rượu nho đã biến đổi thành thịt và huyết của Đức Chúa Jêsus Christ thiêng liêng là sự hiện diện đầy đủ. Thật là giả dối! Đấng Christ phán: “Nơi nào có hai ba người hiệp nhau lại nhơn danh ta, thì có ta ở giữa họ” (Mathiơ 18:20). Nhưng sự giả dối phạm thánh đạt đến tuyệt điểm sau khi vị Linh mục đã biến hóa như vậy, nâng bánh và ly lên, trong khi giáo dân cúi đầu và đấm ngực hoặc ngước mắt hướng lên Thiên đàng, và tuyên bố: “Lạy Chúa và Đức Chúa Trời của con”. Đây là sự thờ hình tượng. Thờ phượng vật chất thọ tạo. Đức Chúa Trời không phải là một miếng bánh, “Đức Chúa Trời là Thần, ai thờ lạy Chúa phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng” (Giăng 4:24)

Nhưng tôi tin, tôi dạy, tôi giảng và dựa vào những giáo lý Công giáo Lamã dù nó đúng hay không đúng với Đức Chúa Trời. Đối với tôi lúc đó, Giáo hội với các Công đồng và lời truyền khẩu của Giáo hội đứng trước Kinh thánh, tiếng nói của Giáo hoàng có uy quyền hơn Đức Thánh Linh. Giáo hội Công giáo Lamã không phải là duy nhất và có một mà loài người hướng đến để tin và vâng phục sao? Đối với giáo lý đó, tôi đã làm như Phao-lô, chủ động bắt bớ Hội thánh của Đức Chúa Trời (Galati 1:13). Trong những chỗ thờ phượng riêng của họ, tôi gây khó khăn cho các Mục sư Tin Lành là những người thệ phản như họ đã được các chức sắc của Giáo hội Công giáo Lamã gọi. Tôi lăng mạ họ và áp lực đuổi họ ra khỏi những giáo xứ mà tôi làm Chúa, làm chủ. Tôi không biết có bao nhiêu văn phẩm của họ bị tôi tiêu hủy. Tôi nhớ lại một việc xảy ra đặc biệt đáng xấu hổ. Tôi thuộc trong số người ngoan đạo (?), chợt bắt gặp một phụ nữ Tin Lành trẻ được một nhóm người vây quanh lắng nghe cách chăm chú khi cô ấy giới thiệu Lời Đức Chúa Trời cho họ. Tôi dùng vũ lực xen vào giữa đám đông và bắt đầu nhạo báng, sỉ nhục cô ấy về cá nhân và công việc cô đang làm là đầy tớ của Đức Chúa Trời. Tôi đe dọa đám đông quanh cô bằng cách nói với họ rằng họ sẽ chết mà không có những thánh lễ của nhà thờ Đức Mẹ. Tôi ra lệnh cho những người đi với tôi gom tất cả Kinh thánh đã được phân phát vì là giả dối, không được dán tem công nhận của Giáo hội thật là NIHIL OBSTAT (không sai lầm), cũng không có IMPRIMATUR (GIẤY PHÉP - ND), những sách chọn 66 quyển mới được phân phối từ nhà in, và với tay tôi, tôi đã xé và quăng vào lửa. Tôi đã làm điều đó trong sự ngu dại. Cứu Chúa của tôi phán: “người nào bỏ ta ra và không nhận lãnh lời ta, đã có kẻ xét đoán rồi; lời ta đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng” (Giăng 12:48).

“Nhưng khi Đức Chúa Trời, là Đấng đã để riêng tôi ra từ lúc còn trong bụng mẹ, và lấy ân điển gọi tôi” (Galati 1:15). Tôi nghe tiếng Chúa trong lòng tôi phán rằng: “Cipriano, đây không phải là chỗ của con. Hãy rời bỏ mọi điều nầy”. Tôi lấy lòng đơn sơ vâng lời và rời bỏ. Vị Giám mục gọi tôi đến và tôi quay lại giáo xứ, đề nghị một vài lời xin lỗi có vẻ tốt nhất. Tuy nhiên, tiếng Chúa cứ nhấn đi nhấn lại. Trong khi tôi nghe những lời xưng tội, Chúa phán: “Đừng nghe những sự yếu đuối của những người khác. Con không thể tha thứ cho họ bất cứ cách nào”. Khi tôi cử hành Lễ Misa hay bí tích rửa tội cho con trẻ, tiếng của Chúa cắt lời tôi. Tôi rời bỏ chức vụ lần thứ hai, và vị Giám mục gọi tôi lần nữa. Giọng nói không chống lại được của Đức Chúa Trời không muốn rời bỏ tôi. Cuối cùng tôi không thể đứng lại. Tôi đến văn phòng vị Giám mục và tuyên bố với ông tôi sẽ rời nhà thờ. Ông ấy trả lời: “Con đang nói gì vậy? Con rời bỏ Giáo hội ư? Nếu con không thích giáo xứ nầy, cha sẽ cho con nơi tốt hơn”. Câu trả lời của tôi là: “Không phải. Điều con muốn cố gắng nói với cha là con không muốn làm điều gì với Giáo hội nữa”. Vị Giám mục phản ứng: “Con sẽ làm gì, con sẽ đi đâu?” Tôi trả lời đơn giản: “Con không biết con sẽ làm gì, cũng không biết đi đâu. Tất cả điều con biết là con phải rời bỏ Giáo hội”. Tức giận, vị Giám mục đứng lên đem đến cho tôi vài thủ tục để điền vào xác nhận việc rời bỏ Giáo hội của tôi. Ông ấy không ghét cá nhân tôi, ông đang mất một người với 18 năm học và 20 năm kinh nghiệm. Tôi không bị trục xuất khỏi chức vụ Linh mục trong Giáo hội Công giáo Lamã; tôi rời bỏ vì CHÚA ĐÃ GỌI TÔI. Một tháng sau, tôi ở trong thành phố Tijuanna, Baja California, Mexico. Tại đó Chúa có một giáo sĩ, dưới sự dẫn dắt của Chúa Jêsus Christ, đã sửa soạn để bày tỏ cho tôi Đức Chúa Jêsus là Cứu Chúa duy nhất. Cuối cùng tôi hiểu Kinh thánh phán: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16). Tôi đã tin Đấng Christ; tôi đã nhận Ngài làm Cứu Chúa và làm Chúa của đời sống tôi. Nhờ điều nầy, tôi biết tôi đã có sự sống đời đời. Một con người không được vào Thiên đàng bởi những việc làm, hoặc những của lễ của mình, hoặc cách ăn nết ở của mình, những điều đó quan trọng như nó có thể. Con đường duy nhất đến với Đức Chúa Cha là qua những giá trị vô hạn của sự chết và sự sống lại của Đấng Christ. Không có một nghi thức, nghi lễ, thánh lễ nào có thể cứu con người.

Đọc giả thân mến, tôi xin Thánh Linh Đức Chúa Trời ban cho quý vị sự sáng, khôn ngoan và hiểu biết. Sau khi đọc lời chứng của tôi, nguyện quý vị nhận ra lý do duy nhất mà tôi viết lời chứng nầy là để quý vị có thể nhận biết Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất có thể biến cãi tâm trí, tấm lòng và đời sống bất kỳ người nào, không cần điều kiện luân lý và thuộc linh, thuộc thể. Chúa đã biến đổi tôi, Ngài cũng có thể biến đổi đời sống quý vị. Tôi không nói những lẽ thật nầy để xúc phạm quý vị hoặc người nào. Bây giờ, lòng tôi cũng như đời sống tôi có tình yêu thương  bởi vì tôi là người đã tin Chúa Jêsus và được sanh lại. Hãy nhận biết quý vị là một tội nhân, hãy xưng tội trực tiếp với Đấng Christ như tôi đã làm. Hãy xin Chúa tha thứ tội lỗi của quý vị. Hãy mời Chúa Jêsus Christ ngự vào lòng và vào đời sống quý vị. Ngài sẽ ban cho quý vị sự sống đời đời.
Hiện nay tôi đang giảng Phúc âm trong các nhà thờ và ở những nơi công cộng, trong nhà tù và nhà riêng.
Do Linh mục qui đạo Cipriano Valdes Jaimes

 

 
 
RA KHỎI HẦM GỚM GHÊ
Lời chứng cá nhân của Simôn Kottoor
một Linh mục trở lại với Tin Lành
 
 
 
 
Tình yêu thương của Chúa Jêsus Christ thúc giục tôi đưa ra lời chứng về sự qui đạo của tôi từ chức vụ Linh mục Công giáo Lamã đến đời sống được sanh lại trong Chúa Jêsus Christ.. 25 năm qua, tôi là Linh mục Công giáo Lamã, theo đúng chính xác hệ thống những sách lễ đã bao phủ tôi như một pháo đài to lớn kiên cố của sự tối tăm và ngu dốt về Lời thành văn của Đức Chúa Trời là Kinh thánh.

Tôi rửa tội cho nhiều trẻ con, rảy nước trên đầu chúng, làm lễ rước kiệu tôn kính “các thánh” đã chết, khiêng những tượng bằng gỗ; không biết điều răn thứ hai của Đức Chúa Trời nghiêm cấm chạm khắc hình tượng. Hằng ngày tôi dâng lễ Misa, mà tôi giả bộ tin là lặp lại tế lễ của Chúa Jêsus Christ trên đồi Gô-gô-tha, và bánh với rượu nho biến thành thịt và huyết của Chúa Jêsus theo nghĩa đen. Chỉ sau đó, tôi nghiên cứu và cầu nguyện theo những lời của Chúa Jêsus trong Kinh thánh, mắt tôi được mở ra. Chúa dạy tôi rằng không thể làm một sự lặp lại tế lễ “đã thành toàn” trên thập tự giá, bánh và rượu nho cũng không biến đổi theo nghĩa đen trở thành thịt và huyết thật của Chúa Jêsus khi Ngài lập trong bữa tiệc cuối.

Rất nghiêm túc, kiên định, thành thật, tôi tìm kiếm sự cầu thay của “các thánh” đã chết và cầu nguyện cho người chết ở ngục luyện tội, mà không biết sự dạy dỗ của Kinh thánh là chỉ có một Đức Chúa Trời và một Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời và loài người. Chúa Jêsus Christ là Thần-Nhân, chỉ một mình Ngài đã chết thay tất cả mọi người và đền trả đầy đủ sự chuộc tội. Điều nầy là thật, chúng ta biết tại sao Kinh thánh không đề cập đến một nơi chuộc tội gọi là ngục luyện tội, nơi những linh hồn được giải thoát qua sự chịu khổ và những lời cầu nguyện của những người sống trên đất. Là một người Công giáo Lamã thành thật, tôi có niềm tin lớn trong sự tôn kính các thánh tích và bí tích được cho là có quyền năng thiêng liêng che chở khi những thánh tích và bí tích được dùng cho những nhu cần thuộc linh.

Trong khi làm Linh mục, tôi được nghe nhiều lời xưng tội và “tha thứ” tội của những người bản chất ngu dốt sự dạy dỗ của Kinh thánh, là chỉ Đức Chúa Trời có thể tha tội. Kinh thánh phán: “Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín, công bình sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (I Giăng 1:9)
Tôi bám chặt những lời nầy, cũng như những niềm tin và nguyên tắc khác, không phải chỉ vì tôi được sanh ra và được nuôi dưỡng trong hệ thống truyền khẩu đó, nhưng chính là vì tôi bị bắt buộc vâng lời, vì tôi tin sự giả dối rằng “ngoài Giáo hội Công giáo Lamã không có sự cứu rỗi”. Sự dạy dỗ của Giáo hội gọi là “Magisterium Ecclesiae” đặt nền tảng trên lời truyền khẩu, được nhận là cách duy nhất để biết được lẽ thật – không phải là lời thành văn của Đức Chúa Trời, là Kinh thánh (quyển sách không được mở, ngay cả đối với những người học làm chức vụ Linh mục)

Nền giáo dục cho chức vụ Linh mục Công giáo Lamã của tôi là ở Lamã. Tôi lấy bằng Tiến sĩ Thần học (D.D.) năm 1954, và sau đó làm nghiên cứu sinh môn kinh tế ở trường BCM, Kottayam tám năm. Tôi cũng là Hiệu trưởng trường Thánh Êtiên, Uzhavoor chín năm. Các vị trí cao nầy cho tôi sự chú ý trong xã hội và thành công về vật chất. Suốt 25 năm làm một Linh mục, tôi không có sự vui mừng thuộc linh hoặc bình an cho linh hồn, ngay cả khi thi hành các nghi lễ. Có một sự gia tăng hoàn cảnh đen tối và trống rỗng lớn lên trong linh hồn tôi đến khi tôi cảm thấy rằng Lễ Rửa Tội cho trẻ con, sự xưng tội, “sự hiện diện thật” của Chúa Jêsus Christ trong Lễ Misa, hoặc bất cứ lễ nào khác đều là vô nghĩa. Tôi không biết làm gì. Tôi quay qua hút thuốc, uống rượu, ăn, xem hát và những sinh hoạt thế tục trong cố gắng làm cho chính tôi sung sướng, bình an. Tuy nhiên, không một điều nào có thể đáp ứng nhu cần tâm linh của tôi. Đó là những năm thống khổ và băn khoăn thuộc linh. Điều tôi cần là sự cứu rỗi đời đời.

Không biết làm sao, tôi bắt đầu xoay sự chú ý của tôi vào Kinh thánh. Những câu Kinh thánh đã bắt tôi lưu tâm. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời ta sẽ không bao giờ qua đâu” (Mác 13:31). Tôi nhận ra rằng đây là vì “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa rị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (II Timộthê 3:16-17).

Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đang đem đến cho đời sống tôi những người đã được tái sanh giúp tôi học Lời Đức Chúa Trời. Họ hướng dẫn tôi qua “Ngọn đèn cho chơn tôi”, và “Ánh sáng cho đường lối tôi”. Tôi bị thuyết phục về lý do đối với sự khô hạn và trống rỗng thuộc linh của linh hồn tôi. “Hễ ai đi dông dài, chẳng bền lòng theo đạo Đấng Christ, thì người ấy không có Đức Chúa Trời. Còn ai bền lòng trong đạo ấy thì người đó có Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con” (II Giăng 9). Dù ngay cả tôi đã có đạo, tôi tồn tại trong đạo lý của Đấng Christ, mắt tôi được mơ và tôi quyết định không hổ thẹn về đạo lý của Đấng Christ như đã tìm thấy trong Kinh thánh - chỉ “quyền năng của Đức Chúa Trời ban sự cứu rỗi”, câu hỏi đầy đủ ý nghĩa và đạo đức của Chúa Jêsus là trong Mathiơ 16:26, Người nào được cả thiên hạ, mà mất linh hồn mình thì có ích gì? Vậy thì người sẽ lấy chi đổi linh hồn mình lại”. Câu Kinh thánh như vang lên trong tai tôi.

Qua Lời Đức Chúa Trời, tôi càng được thuyết phục nhận báp-têm làm một người tin Chúa Jêsus. Báp-têm con trẻ chắc chắn không thể tạo thành một người tin Chúa Jêsus. Một đứa trẻ không thể tin, không thể nhận thức tội lỗi, không thể xưng tội; không thể tin và nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa cho cá nhân mình, cũng như không có dấu hiệu chết, chôn, sống lại của Chúa Jêsus trong việc rảy nước như dấu hiệu báp-têm dìm người xuống nước. Không bao lâu tôi nhận ra nhu cần thuộc linh và bị thuyết phục về tội lỗi của tôi cũng như sự công nghĩa của Đấng Christ. Tôi ngợi khen Chúa đã ban cho tôi sự can đảm và sức mạnh để lìa bỏ mọi điều phía sau, tin nhận Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa và là Chúa cho cá nhân tôi. Quyết định nầy được thực hiện vào ngày 5-4-1980. Sau khi tôi được sanh lại bởi Thánh Linh và báp-têm bằng nước, Chúa ban cho lòng tôi đầy bình an, vui mừng, cho tôi cuộc sống ý nghĩa. Sự trống rỗng linh hồn đã gây phiền não cho tôi bị triệt tiêu vĩnh viễn, bây giờ tôi biết ý nghĩa trở nên một tạo vật mới, “Mọi sự cũ qua đi; nầy mọi sự đều trở nên mới” (II Côrintô 5:17)

Tuy nhiên, Satan không chịu rời bỏ tôi, nó đang gầm thét giống như một con sư tử đói. Nó bắt đầu dùng những tay sai của nó để bắt bớ tôi qua sự tấn công thể xác, cô lập tôi, khai trừ tôi, cáo kiện giả dối chống lại tôi. Tôi chịu đau đớn mọi sự như Thi thiên 69:4, 8. 12 đã diễn tả. Qua tất cả điều nầy, Chúa vẫn là sự an ủi và sức mạnh của tôi. Chúa không bao giờ thất bại, cũng không từ bỏ tôi. Lời Chúa trong Thi thiên 27:10 và Luca 6:22-23 thêm cho tôi tin cậy, cảm hứng và cả sự vui mừng.

Chúa đã ban phước cho tôi có một người vợ đã được sanh lại (một nữ tu 12 năm), và chúng tôi đã sống bằng đức tin, phục vụ Chúa từ đó. Tôi đã du lịch nhiều nơi tại Ấn Độ và các nước khác để giảng lẽ thật về quyền năng cứu rỗi của Chúa Jêsus Christ, cũng như làm chứng về sự qui đạo của tôi. Tôi thăm viếng nhiều gia đình và cá nhân trong cố gắng đem họ trở lại của Chúa. Mặc cho sự bắt bớ, thật kỳ diệu để nhận biết cách nào Chúa đã đưa gia đình tôi đi từ Ấn Độ sang nhiều nơi khác. Cuối cùng, năm 1987, Chúa mở đường cho tôi đem gia đình đến Mỹ. Không bao lâu sau, qua Tiến sĩ Bart Brewer của Hội Truyền giáo Quốc tế cho Người Công giáo Lamã, tôi được giới thiệu đến Mục sư Ted Duncean của Hội thánh Báp-tít Tự do tại San Jose, California. Bao giờ tôi cũng được những người nầy giúp đỡ vì lòng nhân từ và vì đời sống thuộc linh của họ đối với chúng tôi, việc làm như những người Sa-ma-ri nhơn lành đối với chúng tôi.

Vợ tôi và tôi được phước có một con trai là Jimon và con gái là Jintomoi. Gia đình tôi ở San Jose và thông công với Hội thánh Báp-tít Tự do. Vì tôi là một thường dân lớn tuổi kém sức khỏe, vợ tôi không phải là người khéo về kỹ thuật, chúng tôi sống trong một vị trí khiêm nhường và không có thu nhập vững chắc, nhưng chúng tôi tin cậy nơi Chúa là Đấng chu cấp nhu cần cấp bách của tôi qua các con cái của Ngài trong gia đình của Đức Chúa Trời .

Mong ước của tôi là giảng lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời và làm chứng sự qui đạo của tôi. Quyển sách nhỏ mở đầu sẵn sàng giới thiệu cho bất cứ ai thích giúp tôi được làm quen với các Mục sư, một Linh mục trở lại với Tin Lành cần sự giúp đỡ và lời cầu nguyện của anh chị em trong Đấng Christ.
Do Linh mục qui đạo Simon Kottvoor
 
 

 
 
TÔI ĐÃ KHÔNG TÌM ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI CHO CHÍNH TÔI
Lời chứng cá nhân của Herman Hegger
một Linh mục trở lại với Tin Lành

 
Trong quãng đời thơ ấu, tôi thường nghe nói rằng một trong những cách tốt nhất để thoát khỏi địa ngục đời đời là gia nhập vào tu viện. Tôi đã quyết định theo lời khuyên đó.
Cuộc sống tu viện có nghĩa là tu dưỡng sức mạnh năng lực ý chí và thực hiện khả năng kiểm soát tất cả thống khổ và đam mê. Trong tu viện của tôi, những hình thức hành hạ thân thể khác nhau đã được dùng để đạt được năng lực ý chí như vậy. Chúng tôi tự đánh mình bằng roi nhiều lần một tuần, quất vào thân thể trần trụi của chúng tôi bằng những dây thắt nút. Mặc dù rất đau đớn, chúng tôi được dạy rằng nếu chúng tôi chịu đựng những ngọn roi da như vậy cách im lặng, chúng tôi sẽ nhận được sức mạnh chống lại những đòi hỏi của xác thịt và giới tính. Chúng tôi cũng được dạy rằng do tự đánh mình, chúng tôi có thể chuộc được tội lỗi mà chúng tôi đã phạm và rút ngắn sự hình phạt tương lai trong ngục luyện tội. Quanh hông, bắp vế, cánh tay chúng tôi mang những dây xích ăn năn có gai nhọn để chích vào thể xác chúng tôi. Cũng có nhiều loại khác “trừng phạt thân thể”.

Song song với những hình phạt tự gây đau đớn, chúng tôi có những loại bài thực hành khiêm nhường để tiêu diệt sự kiêu ngạo hợm mình của chúng tôi. Một trong những công việc hằng ngày là một Linh mục phải nằm trên nền nhà ngay ngạch cửa để những Linh mục khác bước ngang qua mình. Bất cứ khi nào tôi làm điều nầy, tôi cảm thấy giống một con trùng cho người ta đạp dưới chân, nhưng tôi nghĩ Đức Chúa Trời sẽ rất vui lòng vì sự tình nguyện sỉ nhục mình như vậy.

Sự tự sỉ nhục xấu nhất bao gồm việc dùng lưỡi liếm sạch một khoảng sàn nhà. Làm đều đó khiến chúng tôi cảm thấy mình giống một con vật, một con heo dầm mình trong bùn, hoặc giống một con chó ngửi ngửi chung quanh. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy giống con ruồi bò trong bụi đất.

Tuy nhiên, dù tôi tự phạt và sỉ nhục mình, tôi không thể tìm ra bất cứ sự thay đổi nào hoặc cải thiện bản tánh, hoặc tư cách đạo đức của tôi. Tôi chỉ khám phá bản tánh yếu đuối và tội lỗi của tôi đang sống mạnh. Thí dụ, khi tôi dùng lưỡi liếm sạch sàn nhà, ngay lúc ấy cảm giác hợm mình mạnh nhất và sự kiêu ngạo trổi dậy trong tôi. Tôi sẽ nghĩ, anh là một tướng thật ngon lành phi thường. Anh thật có năng lực ý chí. Anh đã gây thương tích trên mình bằng những sự sỉ nhục đau đớn như vậy. Thật kỳ diệu! Tôi thấy rằng qua những thủ tục ngớ ngẩn nầy, tôi chỉ thổi phồng sự kiêu ngạo của mình. Tu viện là một cố gắng cao thượng, vì vậy tất nhiên là thất bại. Tại sao? Vì vị Linh mục hoặc tu sĩ đem bản tánh tội lỗi của mình theo với mình vào trong phòng kín.

Sau bảy năm làm Linh mục, tôi được thăng chức làm giáo sư Triết trong một Chủng viện Công giáo Lamã ở Brasil. Tuy nhiên, nhiều sự nghi ngờ đã bắt đầu phát triển trong tôi.
Nhiều lần khác, tôi đọc Kinh thánh và tự hỏi: “Giáo hội của tôi có phù hợp với quyển sách nầy không?” Trong Kinh thánh tuyên bố rõ ràng rằng: Đấng Trung Bảo duy nhất giữa Đức Chúa Trời và loài người là Chúa Jêsus Christ, Đấng chịu thay án phạt trên thập tự giá tại đồi Gô-gô-tha. Trong khi đó, GIáo hội của tôi dạy có nhiều trung bảo, đặc biệt là bà Ma-ri là “trung bảo của mọi ân điển”. Tôi cũng bắt đầu  nghi ngờ là Đức Chúa Trời đã ban cho Giáo hoàng uy quyền và quyền vô ngộ để giải thích Kinh thánh, và bổn phận của tất cả Ki-tô hữu là tiếp nhận quan điểm của Giáo hoàng. Có đúng Giáo hoàng có quyền tuyệt đối để sửa đổi và giải thích những lời rõ ràng của Kinh thánh không?

Với những nghi ngờ như vậy trong lòng, rõ ràng tôi có thể không còn là Linh mục Công giáo Lamã nữa. Đối với tôi sự sống chết của tu viện đến hồi kết thúc. Tôi rời bỏ cuộc sống làm ra vẻ và những cái bóng làm thế giới say mê thật sự để tự do thở lúc cuối cùng. Tôi từ bỏ chức vụ giáo sư và rời Giáo hội Công giáo Lamã. Tôi để qua một bên chiếc áo Linh mục mà trong xứ Brasil nhiệt đới đã thấm dầm sức nóng, bước đi nhẹ nhàng, tự do trong chiếc áo sơ-mi bọc ngoài, nhưng trong chỗ sâu thẳm, tôi vẫn mang gánh nặng của tội lỗi.
Bề ngoài, tôi được tự do, nhưng bề trong tôi không an nghỉ, vì tôi lại mất hoàn toàn tầm nhìn của Đức Chúa Trời. Tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ từ một nhà thờ “Tin Lành tại Rio de Janeiro”, nhà thờ địa phương nơi hội chúng đặt nền tảng đức tin chỉ trên sự dạy dỗ của Kinh thánh. Sự thông cảm của những người ở đó giúp tôi rất nhiều, như cung cấp cho tôi quần áo dân sự mà tôi không có tiền mua. Họ cũng cho tôi thức ăn, chỗ nương dựa và tôi luôn được họ chào đón. Nhưng trên tất cả là sự giảng dạy của vị chủ tọa đã thu hút tôi, nó hoàn toàn mới đối với tôi khi nghe những sự giải thích Kinh thánh như vậy. Song, tôi có thể được giúp đỡ qua một nhà truyền đạo Phi-Công giáo Lamã không?

Chắc chắn trong sự huấn luyện của chủng viện, và khi là một Linh mục, tôi thường nghe những sự dạy dỗ xác định là giả dối của những nhà thờ như vậy, mà tôi không bao giờ biết những gì họ dạy.

Tại Rio de Janeiro, tôi đã nghe vị Mục sư giải thích rằng một người không thể tự cứu, hoặc xứng đáng bước vào Thiên đàng bằng bất cứ cố gắng riêng nào, bởi vì con người đã hoàn toàn hư mất và tuyệt vọng. Với tất cả điều nầy, tôi có thể hết sức đồng ý, vì tôi cũng có kinh nghiệm rõ ràng sự bất năng tự biến cãi. Mặc dù những cố gắng lớn nhất và mọi cách ăn năn, tôi đã không thành công trong việc trở nên một người hạng khác. Nhà Truyền đạo tiến xa hơn và bày tỏ chỉ có một cách để được cứu khỏi tội lỗi, và cách đó đã được Đức Chúa Trời ban cho một sự tha thứ và một đời sống mới hoàn toàn miễn phí. Ông bày tỏ cách nào kinh nghiệm nhận được trực tiếp từ Chúa Jêsus Christ, Đấng ban sự giải cứu miễn phí rõ ràng cho mọi người phó thác mình cho Chúa hoàn toàn.

Lần đầu tiên tôi tìm được điều khó tin. Nó giống như một câu chuyện thần thoại – quá dễ để trở thành sự thật. Tôi có thể thấy sự nhịn nhục đẹp đẽ của Đấng Christ. Nó quá lạ lùng kỳ diệu, và đồng thời hình như quá dễ, quá rẻ. Là một người Công giáo Lamã, tôi tin rằng sự cứu rỗi là vấn đề khó nhất trong đời sống; một vấn đề tranh chiến và để được xứng đáng ân huệ của Đức Chúa Trời. Nhưng bây giờ tôi bắt đầu hiểu sự dạy dỗ thật từ Kinh thánh. Phải, sự cứu rỗi thật sự là điều khó nhất trong thế gian và phải được xứng đáng do vâng phục trọn vẹn tất cả mạng lịnh của Đức Chúa Trời, nói cách khác – phải hoàn toàn vô tội. Những sự kiện đáng ngạc nhiên là Chúa Jêsus Christ, Con Đức Chúa Trời, đã làm trọn tất cả mạng lịnh nầy cho chúng ta và thay chúng ta, nếu chúng ta tin cậy Ngài.

Cuối cùng, sự xuyên phá kỳ diệu đã đến. Linh hồn tôi mở ra hoàn toàn tin cậy Đấng Christ. Tôi có thể thấy không phải người Do-thái đóng đinh Chúa Jêsus – mà chính tôi đã làm điều đó. Tội lỗi tôi được Chúa cất đi. Một ánh sáng lóe lên chiếu sáng đời sống rác rưởi trước đây của tôi.
Linh hồn tôi nằm yên giống một thành phố thoát khỏi một trận ném bom, tôi đầy nỗi đau đớn khi nhìn thấy tội lỗi đã thấm vào toàn thể bản chất của tôi. Nhưng vượt trên đống rác, tôi nhận ra và biết rằng Đấng Christ đã tha thứ tôi và làm cho tôi trở nên một con cái Chúa thật. Tôi đã trở nên một người mới.

Chúa Jêsus nói về sự tương giao giữa chính Ngài với những người tin Ngài thật qua những lời nầy: “Ta là người chăn hiền lành, ta quen chiên ta và chiên ta quen ta” (Giăng 10:14). Tôi bắt đầu một đời sống hiểu biết mới tất cả cảm giác của sự thông công thân mật với Đức Chúa Trời mà tôi chưa bao giờ biết  suốt những ngày là một Linh mục Công giáo Lamã - chủ nghĩa Luật pháp chết của Giáo hội Công giáo Lamã đã ở phía sau, tương lai là sự tương giao cá nhân sống động với Đức Chúa Trời kỳ diệu của chúng tôi.
Do Linh mục qui đạo Herman Hegger

 
 
SỰ SỐNG BẮT ĐẦU
CHO LINH MỤC DÒNG TÊN (DÒNG JESUIT)
Lời chứng cá nhân của Jose Rico,
một Linh mục trở lại với Tin Lành

 
 
Ngày 15 tháng 4 năm 1956, tôi đến được vùng biển yên tĩnh bình an với Đức Chúa Trời qua Chúa Jêsus Christ, sau 19 năm liên tục bị đe dọa đắm chìm trong chức vụ Linh mục Công giáo Lamã.

Giữa các lý do tôi rời quê hương Tây Ban Nha là sự kêu gọi của những Giám mục người Mỹ đứng trước một loạt những hệ phái Tin Lành tại Châu Mỹ La-tinh. Có một điều gì đó trong tâm hồn người Tây Ban Nha làm cho người đó phản ứng lại theo bản năng chống đạo Tin Lành. Từ triều đại Charles V và Philip II, lịch sử Tây Ban Nha đầy dẫy những tình tiết tôn giáo, những cuộc chiến đấu, những sắc lệnh về niềm tin và Tôn giáo Pháp đình. Tất cả kết lập thành một phần cuộc sống “Quixote” (một hạng người hào hiệp viễn vong – ND) Tây Ban Nha đạt tới điểm cao nhất sự thù ghét đạo Tin Lành. Vì vậy, khi Giáo hoàng nói với tăng lữ Tây Ban Nha rằng Châu Mỹ La-tinh là cánh đồng truyền giáo cho các Linh mục Tây Ban Nha, đó là tiếng kêu thúc giục đối với tôi. Kết hiệp với lý do nầy là mong ước của tôi được làm việc trong phần thế giới đó, ngay dù tôi chưa thấy, tôi yêu thương, vì nơi đó đã từng là sở hữu quý báu của Đế quốc Tây Ban Nha chúng tôi.

Chẳng bao lâu, Châu Mỹ La-tinh là một thế giới mới và khác trong mọi ý nghĩa ngôn từ. Tại Paulo, Brasil, sau nầy ở Argentina, và cuối cùng tại Chile, tôi thấy những nhà thờ Tin Lành bên cạnh nhà thờ Công giáo Lamã, đòi hỏi quyền và xã hội thừa nhận. Từ quan điểm thành kiến của tôi, tôi cảm thấy rằng điều nầy là một sự lộng hành không thể chịu nổi. Tuy nhiên, Thần hựu đã đem ánh sáng đến cho tâm trí của tôi trên tất cả  điều nầy.

Tôi đến Autofogasta, nước Chile, làm Linh mục của một Đại Giáo đường ở đó, tôi tìm được những cơ hội hấp dẫn thực hành các ý tưởng chống lại Tin Lành. Tôi bắt đầu cuộc chiến đấu khi văn phẩm Tin Lành gởi đến tôi. Tôi đọc nó với sự chán ghét. Sau đó tôi đọc vài quyển sách Tin Lành mà tôi dám đặt trong thư viện riêng. Lần lần, một sự êm dịu bắt đầu thay thế cho sự thù ghét chết người mà tôi đã dựng lên lúc đó để chống lại đạo Tin Lành. Tôi đã thấy rõ ràng Tin Lành không phải là những gì đã được nói, những gì đã được dạy trong những lớp Thần học Công giáo Lamã. Các sách Tin Lành đầy dẫy sự dạy dỗ sâu nhiệm rút ra từ Kinh thánh. Giữa các sách Tin Lành và các sách Công giáo Lamã hiện có không khác nhau gì hơn là thiếu “long trọng xác nhận” của các sách được Giáo hội Công giáo Lamã chấp nhận. Nhưng khi đến với những đời sống của những người tin Chúa Jêsus theo Tin Lành, có sự khác nhau giữa một người nổi tiếng giữa họ với người Công giáo Lamã trung bình. Tôi có ước muốn các môn đồ trung tín của tôi sống cách đạo đức và đúng đắn như những người Tin Lành đáng ghét.

Những tình cảnh bất ngờ đưa tôi từ Chile đến Bolivia. Vài tháng sau tôi được bổ nhiệm lên vị trí đáng tôn kính là Cố vấn Quốc gia của Tổ Chức Sinh Viên Công giáo Lamã, gọi là J.E.C. Tổng Giám mục tại La Paz đã bổ nhiệm tôi và ký tên. Tôi bước vào sự tiếp xúc với những người Bolivia tốt nhất, đó là cách để nói với những người trẻ phi thường của xứ thuộc J.E.C. Họ dấy lên với đời sống phong phú và nhiệt tình, một sức mạnh trong hàng ngũ của hoạt động Công giáo Lamã. Trách nhiệm nặng nề của tôi làm chậm trễ thời gian tiến triển đã bắt đầu trong linh hồn tôi đối với đạo Tin Lành. Nhưng Đức Chúa Trời tiếp tục công việc Ngài đã khởi sự, và tôi không chỉ có cơ hội làm quen với những sách và chứng đạo đơn Tin Lành, nhưng cũng có cơ hội gặp một vài người Tin Lành mạnh mẽ.

Niềm tin trong Công giáo Lamã và chức vụ Linh mục của tôi đã khép lại đối với sự đắm chìm không thể sửa được. Tôi muốn làm vài cố gắng cuối cùng để cứu họ. Tất cả những điều nầy có thể là sự cám dỗ của ma quỉ giống những trường hợp tương tợ tôi đã nghe không? Tôi viết một quyển sách tựa đề “Linh mục và bánh thánh”, dù sách không được xuất bản, nó đã được giáo khu tán thành chính thức. Tôi viết đến thư Hê-bơ-rơ về sự cảm thúc viết sách, tôi không tìm thấy trong đó chức vụ tế lễ Công giáo Lamã mà tôi đang tìm kiếm. Thầy tế lễ duy nhất được nói đến là Chúa Jêsus Christ, là Đấng “… Nhưng hiện nay đến cuối cùng các thời đại, Ngài đã hiện ra chỉ một lần, dâng mình làm tế lễ để cất tội lỗi đi” Hê-bơ-rơ 9:26). Rồi tôi đọc Hê-bơ-rơ 10:17-18, không thể có một sinh tế nào khác đền tội! Làm cách nào từ các tòa giảng Công giáo Lamã giảng rằng Lễ Misa là tiếp nối chính tế lễ trên thập tự giá không có huyết trong khi thư Hê-bơ-rơ dạy rằng: “… không có sự đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê-bơ-rơ 9:22). Đối với lý do nầy, tác giả thư Hê-bơ-rơ nói rằng sự cứu chuộc đời đời đã hoàn thành, thầy tế lễ thượng phẩm đời đời của giao ước mới đã thăng thiên lên nơi rất cao, hiện nay Ngài cầu thay cho chúng ta trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 1:3; 7:25).

Khi tôi học xong thư Hê-bơ-rơ, tôi cảm thấy bàn tay vô hình và quyền năng vô hạn đã lột chiếc áo thụng và đặc tánh Linh mục của tôi. Nền tảng chức vụ Linh mục duy nhất được ghi nhận bởi Thánh Phierơ, “Anh em cũng như đá sống, được xây nên nhà thiêng liêng, làm chức tế lễ thánh, đặng dâng của tế lễ thiêng liêng nhờ Đức Chúa Jêsus Christ, mà đẹp ý Đức Chúa Trời” (I Phierơ 2:5). Điều đó cũng giống như vậy được chỉ dẫn trong thư Hê-bơ-rơ, “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jêsus mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra” (Hê-bơ-rơ 13:15).

Rồi tôi thấy sự chuộc tội vô ích và giả dối, trong khi tác giả thư Hê-bơ-rơ cũng nói rằng Chúa Jêsus Christ là sự chuộc tội của chúng ta, bởi việc dâng sự sống của Ngài trên thập tự giá, “… sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm trong nơi rất cao” (Hê-bơ-rơ 1:3). Nếu Đấng Christ chuộc tội chúng ta, tại sao những linh hồn đã được cứu chuộc phải đến ngục luyện tội để được tẩy sạch? Có phải ngục luyện tội mà những người Công giáo Lamã có không một lần được đề cập trong Kinh thánh không?

Sau việc nầy, chỉ thiếu cơ hội đạt đến mục đích rõ ràng như vậy xuất hiện từ xa. Đức Chúa Trời đã can thiệp và bằng cách cho tôi tiếp xúc với một Mục sư trẻ có sự khôn ngoan thiên phú kết hợp với tình yêu thương sâu nhiệm của Đức Chúa Trời và hiểu biết Kinh thánh đặc biệt. Mục sư đó là Giám đốc Học viện Kinh thánh Ấn Độ tại Lapaz, tên là Samuel Joshua Smith. Đây là sự tiếp xúc đầu tiên của tôi với một “người tà đạo”, sự trò chuyện của ông ấy soi sáng tâm trí tôi, an ủi lòng tôi, đưa đến quan điểm làm cho tôi mạnh mẽ.

Ngày kế tôi trở lại thăm, Samuel Joshua đã nói cách thân mật, “Điều ngăn cản ông tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa duy nhất và vinh hiển cho ông?” Tôi cảm thấy lòng tôi tan chảy với hạnh phúc thiên thượng cùng cảm xúc nghẹn ngào, trong khi những giọt nước mắt lăn xuống gò má tôi. Không có điều gì cần hơn trừ việc tuyên bố những lời: “Tôi tiếp nhận  Đấng Christ với sự đầu phục trọn vẹn”.

Đấng Christ trở thành Cứu Chúa “duy nhất” của tôi, không ai khác đã chết trên thập tự giá vì tôi. Ngài cũng đã trở nên”Cứu Chúa vinh hiển” của tôi, vì huyết Ngài có đủ quyền để rửa sạch tội tôi. Thật những nghi lễ cực khổ, những bí tích, những lời truyền khẩu của loài người trong Công giáo Lamã không làm sạch linh hồn đối với Đức Chúa Trời. Chỉ vì vậy mà tôi hiểu ý nghĩa những gi Chúa Jêsus phán: “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” (Giăng 14:6). Tôi xin Chúa tha thứ vì đã lang thang quá nhiều năm trong những con đường sai lạc, vì tôi đã xác định bước đi trên Con Đường là chính Chúa Jêsus Christ.

Từ đó, tôi biết mình là một tân tạo vật trong Chúa Jêsus Christ (II Côrintô 5:17). Tôi nhận ra rằng đồng lúc đó Chúa Jêsus Christ đã biện hộ cho tôi và đã kéo gánh nặng to lớn khỏi lòng tôi và lúc đó sức nặng không được thương xót không còn đè nặng tôi nữa. Phải, tôi đã “vượt khỏi sự chết mà đến sự sống”.

Tôi vẫn phải tiếp tục thêm hai tháng hoạt động bình thường trong Công giáo Lamã. Cần ước định tất cả những chi tiết trước khi thực hiện bước quyết định. Hai tháng đó là những ngày tối tăm nhất trong cuộc đời tôi. Nhưng cuối cùng Đức Chúa Trời đã bứt đứt dây trói buộc tôi làm tù nhân quá lâu. Một buổi chiều tươi sáng, tôi đến Hội thánh Tin Lành tại Miraflous, ở Lapaz. Tôi mau lẹ cởi bỏ chiếc áo choàng của tôi, mặc một bộ áo người thường, ngồi bên tách trà và dự buổi trò chuyện thuộc linh đơn sơ, thân mật với anh em, cảm thấy như tôi đã từng quen với họ.

Theo cách nầy, bức màn che hạ xuống để đặt dấu chấm hết đối với tấn bi kích đã hiện hữu qua 19 năm dài trong chức vụ Linh mục của tôi
Do Linh mục qui đạo Jose Rico